J.R.R.Tolkien Legendarium Wiki
Advertisement

Chương VIII

Đường tới Isengard

 

    Và thế là, trong ánh sáng của một buổi sớm trong lành, Vua Théoden và Gandalf  người Kị sĩ Trắng gặp lại nhau trên bờ cỏ xanh bên dòng suối Deeping. Có cả Aragorn con trai của Arathorn, chàng elf Legolas, Erkenbrand của vùng Westfold, và các lãnh chúa của Cung điện Vàng. Các Rohirrim tụ tập xung quanh họ, những Kị sĩ của xứ Mark: sự sững sờ vượt quá cả niềm vui chiến thắng, và mắt họ nhìn về phía khu rừng.

   Bỗng nhiên có một tiếng reo lớn, và từ phía Lũy, những người đã bị dồn vào trong Hẻm núi đang đi xuống. Ông lão Gamling Già, Éomer con trai của Éomund, và đi cạnh họ là Người Lùn Gimli. Chàng không đội mũ trụ, một cái khăn buộc qua đầu chàng nhuốm máu, nhưng giọng chàng vẫn rổn rảng.

   ‘Bốn mươi hai, thày cả Legolas ạ!’ chàng gọi. ‘Tiếc thay! Cây rìu của tôi bị mẻ rồi: tên thứ bốn mươi hai có một cái đai sắt quanh cổ hắn. Anh thì thế nào?’

   ‘Anh vượt quá thành tích của tôi một tên đấy,’ Legolas trả lời. ‘Nhưng tôi không ganh tỵ đâu, tôi rất vui vì thấy anh vẫn ổn.’

   ‘Hoan nghênh, Éomer cháu ta!’ Théoden nói. ‘Cháu được bình an, ta thật mừng.’

   ‘Kính chào, Chúa tể xứ Mark!’ Éomer nói. ‘Đêm đen đã qua, và ngày mới lại bắt đầu. Nhưng ngày mới có những tin tức thật lạ lùng.’ Chàng quay người và nhìn kinh ngạc về phía khu rừng, rồi về phía Gandalf. ‘Một lần nữa ông lại tới đúng khi cần, vào lúc bất ngờ,’ chàng nói.

   ‘Bất ngờ?’ Gandalf hỏi. ‘Ta đã nói rằng ta sẽ trở lại và gặp anh ở đây.’

   ‘Nhưng ông không nói khi nào, và như thế nào. Ông mang đến sự trợ lực kì diệu. Pháp thuật của ông thật phi thường, hỡi Gandalf Trắng !’

   ‘Cũng có thể. Nhưng nếu thế thật, thì ta vẫn chưa ra tay đâu. Ta mới chỉ tư vấn sáng suốt trong lúc nguy nan, và tận dụng tốc độ của Shadowfax mà thôi. Sự can trường của các anh đã làm nên tất cả, cùng với những đôi chân dẻo dai của binh sĩ Westfold hành quân qua đêm dài nữa.’

   Nhưng họ vẫn nhìn Gandalf với sự ngạc nhiên lớn hơn nữa. Vài người nhìn hồ nghi về phía khu rừng lạ, và đưa tay che mắt, như thể họ nghĩ cảnh họ đang nhìn khác với cảnh ông thấy.

   Gandalf phá lên một hồi cười dài sảng khoái. ‘Đám cây ?’ ông nói. ‘Không đâu, ta cũng nhìn thấy chúng như các anh thôi. Nhưng đó không phải do ta làm. Đó là một việc nằm ngoài dự đoán của các nhà thông thái. Điều đã xảy ra còn hay hơn dự kiến của ta, và vượt quá cả hy vọng của ta.’

   ‘Nếu không phải do ông làm, thì pháp thuật này thuộc về ai ?’ Théoden hỏi. ‘Rõ ràng là không phải Saruman. Có hiền nhân nào còn hùng mạnh hơn thế mà chúng tôi chưa được biết ?’

   ‘Đây không phải là pháp thuật, mà là một sức mạnh còn cổ xưa hơn nhiều,’ Gandalf đáp, ‘một sức mạnh đã bước đi trên mặt đất này từ trước khi các Elf ca hát, trước khi cây búa đập đe.

 

   Trước khi ta tìm ra sắt, hay ta đốn cây rừng

   Khi núi non dưới vầng nguyệt còn trẻ trung

   Trước khi nhẫn được rèn, hay tai ương kéo đến

   Họ đã bước đi từ thuở ấy trong rừng

 

   ‘Và lời giải cho câu đố của ông ?’ Théoden hỏi.

   ‘Nếu ngài muốn biết, ngài hãy đi cùng ta tới Isengard,’ Gandalf trả lời.

   ‘Tới Isengard ?’ họ thốt lên.

   ‘Phải,’ Gandalf đáp. ‘Ta cần trở lại Isengard, và những ai muốn có thể đi cùng ta. Ở đó chúng ta có thể thấy những điều khác thường.’

   ‘Nhưng không còn đủ lính trong xứ Mark để tấn công thành trì của Saruman, trừ phi họ được gọi hết tới đây và được chữa lành các vết thương cùng sự mệt mỏi’ Théoden nói.

   ‘Dù thế nào ta cũng sẽ tới Isengard,’ Gandalf nói. ‘Ta sẽ không ở đó lâu. Đường của ta giờ nằm hướng đông. Hãy chờ ta ở Edoras, trước tuần trăng khuyết.’

   ‘Không !’ Théoden nói. ‘Trong thời khắc tối tăm trước bình minh, ta đã từng ngờ vực, nhưng ta sẽ không rời ông vào lúc này. Ta sẽ đi cùng ông, nếu ông khuyên thế.’

   ‘Ta muốn nói chuyện với Saruman, càng sớm càng tốt,’ Gandalf nói, ‘và vì lão ta đã gây hại nhiều cho ngài, nên ngài có mặt ở đó là thích hợp. Nhưng khi nào thì ngài có thể khởi hành, và phi ngựa nhanh chừng nào?’

   ‘Lính tráng của ta vẫn còn mệt nhọc sau trận chiến,’ Nhà vua nói, ‘ta cũng thế. Vì ta đã phi ngựa rất xa và hầu như không ngủ. Hỡi ôi! Tuổi tác của ta không phải là bịa đặt, cũng không phải do lời dèm pha của Lưỡi Rắn gây ra. Đó là một căn bệnh mà không thày thuốc nào chữa nổi, kể cả Gandalf.’

   ‘Vậy thì hãy để tất cả những ai sẽ đi cùng ta nghỉ ngơi vào lúc này,’ Gandalf nói. ‘Chúng ta sẽ khởi hành vào ban tối. Thế cũng tốt, vì ta khuyên rằng tất cả những chuyện đi và đến của chúng ta hãy nên giữ bí mật tối đa, từ nay trở về sau. Nhưng đừng mang nhiều người theo quá, vua Théoden. Chúng ta tới thương thảo, chứ không tới để chiến đấu.’

   Nhà vua chọn ra những người không bị thương và có ngựa nhanh, ông truyền cho họ loan tin thắng trận tới mọi thung lũng của vùng Mark; và họ cũng mang lệnh ông triệu tập tất cả nam giới, già hay trẻ, tới Edoras gấp. Ở đó, Chúa tể xứ Mark sẽ tổ chức một lễ duyệt quân với tất cả những ai có thể cầm khí giới, vào ngày thứ hai sau trăng tròn. Để tới Isengard cùng ông, Nhà vua chọn Éomer và hai mươi lính cận vệ của ông. Đi cùng Gandalf là Aragorn, Legolas và Gimli. Bất chấp vết thương, anh chàng Người Lùn không chịu ở lại dưỡng thương.

   ‘Chỉ là một cú xoàng thôi, và vành mũ trụ đã làm nó chệch hướng,’ chàng nói. ‘Một vết xước từ Orc không đủ để bắt tôi ngồi nhà đâu.’

   ‘Tôi sẽ chăm vết thương cho anh, khi nào anh nghỉ ngơi,’ Aragorn nói.

 

   Giờ đây nhà vua quay vào Hornburg, và ngủ một giấc yên ả mà đã nhiều năm ông chưa biết đến, những người mà ông đã chọn cũng nghỉ ngơi. Nhưng những người khác, tất cả những ai không bị thương hoặc bị tổn hại, bắt tay vào một công việc nặng nhọc; vì nhiều binh lính đã ngã xuống trong trận đánh và nằm phơi xác trên chiến địa hoặc trong Hẻm núi.

   Không tên Orc nào còn sống sót; thây chúng nhiều vô kể. Nhưng số đông người vùng đồi đã đầu hàng; họ run sợ và kêu van.

   Lính xứ Mark tước vũ khí của họ và đưa họ vào lao động.

   ‘Hãy tham gia sửa chữa những thiệt hại mà các người đã góp phần gây ra,’ Erkenbrand nói, ‘và sau đó, các người phải thề sẽ không bao giờ mang binh khí vượt qua Khúc cạn của dòng Isen nữa, cũng không bao giờ chung quân với kẻ thù của Loài người nữa; rồi các người sẽ được tự do quay trở lại xứ của các người. Vì các người đã bị Saruman lừa. Nhiều kẻ trong số các người đã nhận lấy cái chết như là phần thưởng cho lòng tin vào lão ta; nhưng nếu chẳng may các người có chiến thắng đi nữa, thì lão ta cũng không trả công các người khá hơn đâu.’

   Đám người Dunland bàng hoàng không tin nổi, vì Saruman từng bảo họ rằng lính Rohan rất tàn ác và thường thiêu sống tù binh.

   Trên trận địa trước Hornburg, hai nấm mộ được đắp lên, nằm đó là những Kị sĩ xứ Mark đã ngã xuống để thủ thành, lính vùng Lũng Đông ở một bên, và vùng Westfold một bên. Trong một nấm mồ khác nằm một mình dưới bóng Hornburg là thi thể của Háma, tổng thị vệ của Nhà vua. Chàng đã ngã xuống trước cổng thành.

   Thây bọn Orc bị chất thành gò cao, cách xa nấm mộ của Con Người, và khá gần bìa rừng. Binh lính thấy rất phiền hà, vì đám xác thối này quá lớn, khó lòng đốt chúng hoặc chôn chúng đi. Họ không có đủ gỗ để thiêu, và không một ai dám bổ rìu xuống đám cây lạ, ngay cả nếu Gandalf không cảnh báo họ đừng động đến một cành cây hay vỏ cây nào trừ phi muốn nguy hiểm chết người.

   ‘Để bọn Orc nằm đấy,’ Gandalf nói. ‘Ta có thể sẽ có ý hay hơn vào buổi sáng.’

 

   Khi chiều đến, hội đồng hành của Nhà vua chuẩn bị xuất phát. Công việc chôn cất vừa mới bắt đầu; Théoden thương khóc cho sự hi sinh của Háma, tổng thị vệ của ông, và ông đặt hòn đất đầu tiên xuống nấm mộ của chàng. ‘Saruman thật đã gây đau thương cho ta và tất cả vùng đất này,’ ông nói, ‘ta sẽ ghi nhớ điều đó khi ta gặp lão.’

   Mặt trời đã kéo sang gần rặng đồi phía tây của Thung lũng, khi Théoden và Gandalf cùng hội đồng hành rốt cục cũng phi xuống từ Lũy. Sau họ là một đám đông lớn, gồm cả Kị sĩ và người dân của vùng Westfold, nam phụ lão ấu, những người đã ra khỏi hang động. Họ hát một bài ca chiến thắng bằng giọng lanh lảnh; rồi họ lặng im, tự thầm hỏi điều gì sẽ xảy đến, cặp mắt họ đầy sợ sệt nhìn về đám cây lạ.

   Các Kị sĩ phi tới bìa rừng, họ ngưng lại; cả người lẫn ngựa đều e dè không muốn đi vào. Đám cây xám xịt và mang một vẻ đe dọa, một cái bóng mờ hoặc một màn sương bao quanh chúng. Ngọn những cành dài lê thê rủ xuống như những ngón tay đang mò mẫm, rễ cây trồi lên mặt đất như tứ chi của quái vật, và những hốc đen mở ra ở bên dưới.

   Nhưng Gandalf tiến tới, dẫn đầu cả đoàn, và ở chỗ con đường từ Hornburg chạy ra gặp khu rừng, họ nhìn thấy một lối vào như cổng vòm dưới những cành to chắc; Gandalf đi qua đó, và họ đi theo. Họ kinh ngạc nhận ra rằng con đường vẫn đi tiếp, dòng suối Deeping chảy bên cạnh nó; và bầu trời mở ra cao rộng ngập tràn nắng vàng. Nhưng ở hai bên, hai vạt rừng lớn đã nhuốm màu hoàng hôn và trải ra xa tít tới bóng tối như bưng; họ nghe thấy tiếng cành cây răng rắc, tiếng chỏm cây rền rĩ, những tiếng động ở xa, và âm thanh xào xạc của muôn giọng không lời đang thì thầm giận dữ. Không tên Orc hay sinh vật sống nào hiện ra trong tầm mắt.

   Legolas và Gimli cưỡi chung một ngựa, họ giữ khoảng cách gần với Gandalf, vì Gimli thấy sợ khu rừng.

   ‘Ở đây khá nóng,’ Legolas nói với Gandalf. ‘Tôi cảm thấy một cơn phẫn nộ đang vây quanh tôi. Ông có cảm thấy không khí đang đập trong tai không?’

   ‘Có,’ Gandalf đáp.

   ‘Bọn Orc tội nợ đó đã gặp chuyện gì?’

   ‘Ta nghĩ là sẽ không ai biết câu trả lời đâu.’ Gandalf nói.

 

   Họ im lặng phi ngựa một lát; nhưng Legolas vẫn nhìn qua nhìn lại sang hai bên, và có thể đã dừng cương để lắng nghe âm thanh của khu rừng nếu như Gimli chịu.

   ‘Đây là những cây cối kì lạ nhất mà tôi từng thấy,’ Legolas nói, ‘và tôi đã từng ngắm nhìn rất nhiều cây sồi từ lúc chúng còn nằm trong hạt cho đến lúc chúng chết già. Ước gì tôi có thời giờ thong thả để tản bộ giữa những cây này: chúng biết nói, và sẽ có lúc tôi hiểu được suy nghĩ của chúng.’

   ‘Không, không!’ Gimli nói. ‘Ta hãy đi khỏi đây! Tôi có thể đoán được suy nghĩ của chúng : sự căm ghét với tất cả những loài hai chân ; và tiếng nói của chúng thì thít chặt và đàn áp.’

   ‘Không phải tất cả những loài hai chân,’ Legolas nói. ‘Tôi nghĩ anh nhầm ở điểm này. Họ chỉ ghét bọn Orc thôi. Vì họ không thuộc về chốn này, và ít biết đến Elf và Người. Họ mọc lên ở những thung lũng rất xa đây. Họ tới từ những vùng trũng sâu của Fangorn, Gimli ạ, tôi đoán thế.’

   ‘Thế thì đây là khu rừng nguy hiểm nhất của Middle-earth,’ Gimli nói. ‘Tôi nên biết ơn chúng vì những việc chúng đã làm, nhưng tôi không ưa chúng tẹo nào. Anh có thể cho rằng chúng tuyệt vời, nhưng tôi đã nhìn thấy một thứ còn tuyệt hơn trên đất này, đẹp hơn bất cứ rừng cây hay trảng cỏ nào từng mọc lên : trái tim tôi vẫn còn xao động vì nó. 

The Glittering Caves of Aglarond

   Legolas này, Con Người thật kì quặc ! Ở đây họ sở hữu một trong những kì quan của Thế giới phương Bắc, và họ gọi nó là gì ? Là ‘‘hang hốc’’ ! Hang hốc ! Những lỗ hang để ẩn náu trong lúc binh đao, để chứa cỏ khô ! Legolas thân mến, anh có biết rằng những thạch động của Helm’s Deem rất rộng lớn và đẹp tuyệt ? Sẽ có hàng đoàn Người Lùn hành hương tới đây để chiêm ngưỡng chúng, nếu họ biết đến chúng. Thật đấy, họ sẽ sẵn lòng trả vàng nén chỉ để ngắm một chút.’

   ‘Còn tôi sẽ trả vàng nén để không phải nhìn thấy,’ Legolas nói, ‘và trả gấp đôi để được thoát ra ngoài, nếu chẳng may tôi có lọt vào trong hang.’ 

   ‘Anh chưa nhìn thấy chúng đâu, thế nên tôi tha cho lời nói giỡn của anh,’ Gimli nói. ‘Nhưng anh đùa như một thằng khờ. Liệu những lầu son gác tía nơi Vua cha của anh ở, dưới rặng đồi trong rừng Mirkwood, mà Người Lùn đã góp tay xây nên từ rất lâu rồi, anh nghĩ rằng chúng đẹp ? Chúng chỉ đáng như một túp lều khi so với những thạch động mà tôi thấy ở đây : những vòm động bao la, ngập tràn tiếng nhạc nước vĩnh cửu đang chảy vào bể đá, tuyệt vời như hồ Kheled-zâram dưới ngàn sao.

   Legolas ạ, khi ánh đuốc thắp lên, người người bước đi trên nền động đầy cát, dưới những mái vòm vang vọng. A! Rồi, Legolas này, đá quý cùng hoa cương và các mạch quặng lấp lánh trên vách động bóng láng ; ánh sáng phản chiếu qua các nếp cẩm thạch, trong mờ như vỏ trai ngọc, như bàn tay sống động của Nữ hoàng Galadriel. Có những dãy cột màu trắng, màu nghệ, và màu hồng ửng rạng đông, bị xoi và bị xoắn thành những hình thù như trong mơ, Legolas hỡi, chúng nối từ nền động nhiều màu sắc lên tới dàn thạch nhũ óng ánh của vòm động : hình đôi cánh, hình cuộn dây, những rèm nhũ mỏng tang như mây giăng ; hình cây giáo, ngọn cờ, hình tháp nhọn của những cung điện treo lơ lửng !

   Lại có cả hồ nước soi bóng : một thế giới long lanh hắt lên từ dưới mặt hồ sâu thẳm phủ đầy pha lê ; ngay cả trí óc của Durin cũng khó lòng tưởng tượng ra trong giấc ngủ, những phố xá nối dài qua các đại lộ và sân trào, hoặc trải ra tới những nơi thâm sơn cùng cốc mà không ánh sáng nào rọi tới.

   Tí tách ! Một giọt nước bạc rơi xuống, và các gợn sóng tỏa ra trên mặt hồ pha lê khiến cho những hình tháp lũy chao đảo và rung rinh như san hô tảo biển trong lòng hang động dưới đáy đại dương. Rồi khi tối đến : chúng mờ đi và nhấp nháy tắt dần ; ngọn đuốc chuyển sang một vòm động khác, một giấc mơ khác. Động nối tiếp động, Legolas ạ, cung điện mở ra sau cung điện, mái vòm nối tiếp mái vòm, cầu thang dẫn tới cầu thang ;  và lối mòn quanh co vẫn tiếp tục đi sâu vào trong lòng núi.

   Hang hốc ! Những thạch động của Helm’s Deep ! Cơ duyên nào đã dẫn tôi tới đây ! Tôi muốn phát khóc khi phải rời đi.’

   ‘Thế thì, để an ủi anh, Gimli ạ, tôi mong vận may này sẽ đến với anh,’ chàng Elf nói, ‘rằng anh sẽ được trở về an toàn sau cuộc chiến và quay lại đây để ngắm những thạch động. Nhưng đừng nói với tộc nhà anh ! Hẳn là không còn nhiều thứ để họ khai phá ở đây, theo như lời anh kể. Có lẽ người dân xứ này khá khôn ngoan khi kiệm lời về thạch động : một gia tộc Người Lùn bận rộn với búa và đục sẽ phá động nhiều hơn là gây dựng cái gì.’

   ‘Không, anh không hiểu đâu,’ Gimli nói. ‘Không Người Lùn nào có thể cầm lòng trước một vẻ đẹp như thế này. Sẽ không có ai thuộc nòi giống của Durin định khai thác những thạch động này để tìm đá hay mỏ quặng, ngay cả nếu có quặng vàng quặng kim cương đi nữa. Anh có bao giờ đốn những lùm cây đang ra hoa trong độ xuân chỉ để lấy củi ? Chúng tôi sẽ trông nom những vỉa đá lộng lẫy này, chứ không đục đẽo chúng.

   Chúng tôi có thể lao động với kĩ năng cẩn trọng, với từng nhát gõ nhẹ - chỉ một mảnh đá nhỏ trong mỗi ngày đằng đẵng, không hơn, và sau vài năm, chúng tôi có thể mở ra những động mới, làm hiển lộ ra những mái vòm vẫn còn tối tăm mới chỉ ánh mờ lên như một hố đen đằng sau những khe đá nứt.

   Và ánh sáng, Legolas này ! Chúng tôi sẽ chiếu sáng, chẳng hạn bằng những chiếc đèn giống như ở Khazad-dûm ; và khi cần, chúng tôi sẽ đuổi đi bóng đêm đã nương náu ở đó từ khi rặng đồi mới nhú  lên, rồi khi chúng tôi muốn ngơi nghỉ, chúng tôi sẽ để bóng đêm quay trở lại.’

   ‘Anh làm tôi cảm động, Gimli ạ,’ Legolas nói. ‘Tôi chưa hề thấy anh nói năng như thế này bao giờ. Anh khiến cho tôi gần như hối tiếc vì chưa được ngắm thạch động. Đi nào ! Chúng ta hãy giao hẹn với nhau, nếu hai ta cùng trở về an toàn sau những hiểm nguy đang chờ phía trước, thì ta sẽ du hành cùng nhau một thời gian. Anh sẽ thăm Fangorn cùng tôi, và tôi sẽ thăm Helm’s Deep cùng anh.’

   ‘Đó không phải là cách trở về mà tôi muốn chọn,’ Gimli nói. ‘Nhưng tôi sẽ chịu đựng Fangorn, nếu anh hứa là sẽ quay lại thạch động để cùng tôi ngắm vẻ kì quan của chúng.’

   ‘Tôi hứa với anh,’ Legolas nói. ‘Nhưng, chao ôi! Giờ chúng ta phải rời khỏi cả thạch động lẫn rừng già. Xem này! Chúng ta đã tới phần cuối của trảng cây. Gandalf, còn bao xa nữa thì đến Isengard?’

   ‘Khoảng mười lăm dặm lý, theo đường quạ bay của Saruman,’ Gandalf trả lời, ‘năm từ Thung lũng Deeping tới Khúc cạn, và mười từ đó tới cổng Isengard. Nhưng chúng ta sẽ không đi hết đường trong tối nay được.’

   ‘Khi tới đó, ta sẽ thấy gì?’ Gimli hỏi. ‘Ông có thể biết, nhưng tôi thì không đoán nổi.’

   ‘Bản thân ta cũng chưa biết rõ,’ pháp sư trả lời. ‘Ta ở đấy vào tối qua, nhưng có nhiều việc đã có thể xảy ra từ lúc đó tới giờ. Tuy vậy, ta nghĩ rằng anh sẽ không phải nói mình tới vô ích đâu – dù anh có phải bỏ lại Thạch động Lấp lánh của Aglarond.’

 

   Cuối cùng đoàn người cũng ra khỏi rừng cây, và thấy rằng họ đã tới được đáy của Thung lũng, nơi con đường từ Helm’s Deep rẽ đôi, một ngả đông về phía Edoras, và một ngả bắc về phía Khúc cạn của dòng Isen. Khi họ phi ngựa ra khỏi tán cây, Legolas ngừng lại và nhìn về phía sau với vẻ tiếc nuối. Chàng đột ngột la lên.

   ‘Có những con mắt!’ chàng thốt lên. ‘Những cặp mắt nhìn ra từ trong bóng tối của cành lá! Tôi chưa từng thấy những con mắt như thế bao giờ.’

   Những người khác, giật mình vì tiếng la của chàng, cũng dừng cương và ngoái nhìn; nhưng Legolas đã giục ngựa phi ngược lại.

   ‘Không, không!’ Gimli kêu lên. ‘Anh muốn làm chuyện điên rồ gì cũng được, nhưng để tôi xuống ngựa trước đã! Tôi không muốn nhìn thấy con mắt nào hết!’

   ‘Dừng lại, Legolas Lá xanh!’ Gandalf nói. ‘Đừng quay lại khu rừng, khoan đã! Bây giờ chưa phải lúc thích hợp cho anh!’

   Trong khi ông nói, bỗng có ba hình thù kì lạ đi ra khỏi đám cây. Họ to lớn như Troll, cao mười hai bộ hoặc hơn; thân thể họ cứng cáp như cây non và được phủ một lớp quần áo hoặc da màu nâu xám vừa khít. Tứ chi họ rất dài, tay họ có nhiều ngón; tóc tai họ cứng quèo, và chòm râu của họ xanh xám như rêu mốc. Họ trông ra với cặp mắt nghiêm nghị, nhưng họ không nhìn vào các kị sĩ: cái nhìn của họ hướng về phương bắc.

   Đột nhiên họ đưa bàn tay dài khum khum lên miệng, và phát ra những tiếng gọi ngân vang, lanh lảnh như tiếng tù và, nhưng giàu nhạc điệu hơn và biến tấu hơn. Có những tiếng đáp lời; các kị sĩ ngoái nhìn lại và thấy nhiều sinh vật khác cùng loại đang đi tới, sải bước qua bãi cỏ. Họ đến rất nhanh từ phương Bắc, dáng đi như bầy hạc lội nước, nhưng tốc độ thì hơn hẳn; vì những sải chân dài của họ dội bước còn nhanh hơn cánh hạc đập. 

The Tree Shepherds

   Các kị sĩ kêu lên sửng sốt, vài người đặt tay lên chuôi kiếm.

   ‘Không cần dùng đến vũ khí,’ Gandalf nói. ‘Đây là những Kẻ chăn nuôi. Họ không phải là kẻ thù, thật ra thì họ không bận tâm đến chúng ta một chút nào.’

   Điều này có vẻ đúng, vì trong khi ông đang nói thì những sinh vật cao lớn này bước nhanh vào trong rừng và biến mất, không nhìn ngó gì đến các kị sĩ.

   ‘Kẻ chăn nuôi!’ Théoden nói. ‘Đàn gia súc của họ đâu? Họ là loài gì vậy, Gandalf ? Vì, dù thế nào đi nữa, rõ ràng là họ không xa lạ với ông.’

   ‘Họ là những kẻ chăn cây cối,’ Gandalf trả lời. ‘Đã lâu rồi ngài chưa nghe những giai thoại kể bên bếp lửa phải không ? Trẻ con trong xứ của ngài có thể kiếm được câu trả lời cho ngài từ những truyền tụng thêm thắt đấy.

   Ngài đã bao giờ thấy các Ent, vâng thưa Đức vua, Ent từ Rừng Fangorn, mà tiếng xứ ngài gọi là Rừng Ent ? Liệu ngài có nghĩ rằng cái tên đấy chỉ là một tưởng tượng tầm phào ? Không đâu, Théoden ạ, ngược lại : với họ thì chính ngài mới là một câu chuyện nhất thời; tất cả lịch sử từ thời Eorl Trẻ tuổi cho tới Théoden Cao tuổi đều không đáng kể mấy đối với họ; và tất cả những chiến công của dòng họ ngài chỉ là chuyện vặt với họ mà thôi.’

   Nhà vua im lặng. ‘Ent !’ ông thốt lên sau một hồi lâu. ‘Ta bắt đầu nghiệm ra sự kì diệu của cây cối, từ bóng tối của các truyền thuyết. Ta đã sống để được nhìn thấy những ngày lạ thường. Chúng ta đã chăm bón đồng ruộng và gia cầm từ ngày xưa, đã xây nhà dựng cửa, rèn hái gọt lao, đã phi ngựa tới trợ chiến cho Minas Tirith. Chúng ta gọi đó là cuộc sống của Con Người, là xoay vần của thế gian. Chúng ta không bận tâm lắm đến những gì nằm ngoài ranh giới của xứ sở. Chúng ta có vài bài ca về những sinh vật đó, nhưng chúng ta đã lãng quên chúng, và chỉ dạy chúng cho bọn trẻ nhỏ hát như một phong tục vu vơ. Giờ đây những bài ca này đáp xuống chúng ta từ những nơi lạ lùng, và hóa thành sự thật bước đi dưới ánh Mặt trời.’

   ‘Ngài nên mừng, Vua Théoden ạ,’ Gandalf nói. ‘Vì không chỉ cuộc sống nhỏ bé của Loài Người đang bị đe dọa, mà cả cuộc đời của những sinh vật này mà ngài gọi là truyền thuyết. Ngài không phải là không có đồng minh, dù những đồng minh này ngài chẳng hề quen biết.’

   ‘Nhưng ta vẫn thấy buồn rầu,’ Théoden nói. ‘Vì bất kể cuộc chiến này có cơ may nào đi chăng nữa, chẳng phải là nhiều thứ tốt tươi và đẹp đẽ sẽ ra đi mãi mãi khỏi Middle-earth hay sao ?’

   ‘Có thể lắm,’ Gandalf nói. ‘Tội ác của Sauron không thể nào được cứu chữa hoàn toàn, thế gian cũng không thể khôi phục như ngày trước. Nhưng đó là vận mệnh của chúng ta. Hãy tiếp tục chặng đường mà chúng ta đã bắt đầu.’

 

   Đoàn người đi ra khỏi Thung lũng và khu rừng, rồi tiến theo con đường về phía Khúc cạn. Legolas miễn cưỡng đi theo. Mặt trời đang lặn, nó đã chìm xuống sau đường chân trời ; nhưng khi họ phi ngựa ra khỏi bóng của rặng đồi và nhìn về phía tây tới Khe núi Rohan, bầu trời vẫn còn đỏ ối, và tia nắng tàn vẫn cháy rực lên sau dải mây trôi.

   Rất nhiều cánh chim đen chao lượn trên nền trời. Một số trong chúng bay qua trên đầu họ với tiếng kêu thê lương, rồi chúng bay trở về tổ ở trên những vách đá.

   ‘Bọn kền kền ăn xác đã hưởng đủ trên bãi chiến trường,’ Éomer nói.

   Họ đang phi ngựa thong thả hơn, bóng đêm hạ xuống trên đồng bằng chung quanh. Vầng trăng chầm chậm mọc lên và đang tròn dần ; dưới ánh trăng bàng bạc lạnh lẽo, đồng cỏ dâng lên trập trùng như một biển sóng cồn.

   Họ đã phi ngựa được khoảng bốn giờ từ chỗ rẽ của con đường và đang tới gần Khúc cạn. Triền dốc trải dài xuống tới những bãi đá cạn của dòng sông giữa đôi bờ cỏ. Họ nghe thấy tiếng sói tru vẳng lại trong gió. Trái tim họ trĩu nặng khi tưởng nhớ đến những đồng đội đã ngã xuống tại nơi này. 

River Isen

   Con đường lách qua những bờ đất nhấp nhô từ giữa thềm sông ra tới rìa của dòng sông, rồi lại đi lên ở mé bên kia. Có ba hàng đá phẳng lát dưới lòng nước, và giữa chúng là lối cạn dành cho ngựa lội, từ mỗi bờ cho tới một cù lao trơ trụi ở giữa dòng. Các kị sĩ nhìn xuống những vết lội, và họ thấy lạ; vì Khúc cạn này thường róc rách tiếng nước chảy qua đá, cùng những luồng nước xô ào ạt; nhưng giờ đây chúng đều yên lặng. Đáy sông gần như cạn, một nền đất trụi lủi đầy đá cuội và cát xám.

   ‘Chốn này đã trở nên một nơi ảm đạm,’ Éomer nói. ‘Chứng bệnh gì đến với dòng sông vậy ? Saruman đã phá hoại rất nhiều điều đẹp đẽ, có phải lão đã hút cạn cả nguồn nước Isen ?’

   ‘Có lẽ là thế,’ Gandalf đáp.

   ‘Chao ôi !’ Théoden nói. ‘Ta có nhất thiết phải đi lối này không, nơi bọn quạ đen đã mổ xác của rất nhiều chiến binh anh dũng xứ Mark?’

   ‘Đây là đường mà ta phải đi,’ Gandalf trả lời. ‘Đau buồn thay sự hi sinh của lính tráng ngài, nhưng ngài cũng nên thấy rằng, ít nhất thì bọn sói trên núi cũng không ăn xác họ. Thay vào đó, chúng đánh chén xác đám bạn của chúng: lũ Orc. Đó chính là kiểu bạn bè của chúng. Đi thôi!’

   Họ phi ngựa xuống tới sông, bọn sói ngừng tru và lẩn đi khi thấy họ. Nỗi khiếp sợ chiếm lấy chúng khi chúng nhìn thấy Gandalf dưới ánh trăng, và chiến mã của ông Shadowfax tỏa sáng như bạc. Các kị sĩ lội tới cù lao, và có những cặp mắt lập lòe đờ đẫn theo dõi họ từ bóng tối của đôi bờ.

   ‘Nhìn này!’ Gandalf nói. ‘Bạn bè của chúng ta đã lao động ở đây.’

   Và họ nhìn thấy, giữa cù lao là một nấm mộ được đắp lên, xung quanh rải đá và cắm nhiều cây thương.

   ‘Trong nấm mộ này là những người con xứ Mark đã ngã xuống quanh đây,’ Gandalf nói.

   ‘Mong họ được yên nghỉ !’ Éomer nói. ‘Khi nào những ngọn giáo của  họ đã hoen gỉ hay mục ra, mong rằng nấm mộ của họ vẫn đứng đó canh gác cho Khúc cạn của dòng Isen!’

   ‘Có phải đây cũng là việc ông đã làm, Gandalf bạn ta?’ Théoden nói. ‘Ông đã làm được thật nhiều chỉ trong một tối và một đêm!’

   ‘Với sự giúp đỡ của Shadowfax – và những người khác,’ Gandalf đáp. ‘Ta đã đi rất cấp tốc và rất xa. Nhưng, bên nấm mồ này, ta sẽ nói để ngài bớt thương cảm: nhiều người đã ngã xuống trong trận chiến nơi Khúc cạn, nhưng không nhiều như lời đồn đâu. Số bị tản ra còn nhiều hơn số bị giết; ta đã tập hợp tất cả những ai mà ta có thể tìm ra.

   Ta cử một số đi cùng Grimbold của vùng Westfold để tới hội quân với Erkenbrand. Ta phân công một số đắp nấm mồ này.  Nay họ đang đi theo Elfhelm, thống chế của ngài. Ta bảo anh ta cùng nhiều kị sĩ khác phi tới Edoras. Ta biết là Saruman đã xuất tất cả quân của hắn để chống lại ngài, và thuộc hạ của hắn trong những sứ mệnh khác cũng quay sang Helm’s Deep hết: vùng đất này hiện đang vắng bóng quân địch; tuy thế ta sợ rằng bọn cưỡi sói và bọn cướp bóc có thể chạy tới Meduseld khi đang không có ai phòng thủ ở đó. Nhưng hiện giờ thì ngài không cần lo: ngài sẽ thấy cung điện của ngài đón mừng ngài trở về.’

   ‘Ta sẽ rất vui được thấy lại nó,’ Théoden nói, ‘dù rằng ta chẳng còn ngự ở đó được lâu, ta tin chắc thế.’

   Đoàn người từ biệt nấm mộ và hòn cù lao, họ lội qua sông, leo lên bờ bên kia. Họ phi tiếp, nhẹ nhõm vì được ra khỏi Khúc cạn tang tóc. Khi họ đi khỏi, tiếng hú của bọn sói lại cất lên.

   Có một đường cái khá cổ xưa đi từ Isengard xuống chỗ lội. Nó chạy dọc bờ sông một đoạn, uốn về phía đông rồi phía bắc, rồi nó rẽ sang và chạy thẳng tới cổng của Isengard, cánh cổng này nằm dưới triền núi phía tây của thung lũng, mười sáu dặm hoặc hơn kể từ miệng thung lũng. Họ men theo con đường này, nhưng không phi ngựa trên nó, vì nền đất hai bên đường bằng phẳng hơn, phủ đầy cỏ non đang mọc trong nhiều dặm.

   Giờ đây họ phi nhanh hơn, vào lúc nửa đêm họ đã cách Khúc cạn gần năm dặm lý. Rồi họ ngưng lại, tạm nghỉ chuyến đi đêm, vì Nhà vua đã thấm mệt. Họ đã tới gần chân của Dãy núi Mù sương, và những cánh tay dài của Nan Curunír chạy xuống trước mặt họ.

   Thung lũng phía trước tối đen, vì mặt trăng đã lặn về Tây, ánh trăng khuất sau rặng đồi. Nhưng, từ trong bóng đêm của thung lũng, một cột khói và hơi nước lớn bốc lên thành hình xoắn ốc; khi lên cao, nó bắt gặp ánh trăng mờ chiếu và tỏa ra cuồn cuộn, màu đen và xám bạc trên bầu trời đầy sao.

   ‘Ông nghĩ thế nào về chuyện này, Gandalf?’ Aragorn hỏi. ‘Người ta sẽ nói rằng cả Thung lũng Pháp sư đang bốc cháy.’

   ‘Luôn có khói lan tỏa trên thung lũng những ngày này,’ Éomer nói, ‘nhưng tôi chưa hề thấy chúng như vậy bao giờ. Đây là hơi nước chứ không phải khói thường. Saruman đang nấu món độc dược gì đó để tiếp chúng ta. Có thể là lão đang đun sôi tất cả nước của dòng Isen lên, thảo nào dòng sông chẳng cạn.’

   ‘Có thể lắm,’ Gandalf nói. ‘Ngày mai chúng ta sẽ biết lão giở trò gì. Bây giờ ta hãy nghỉ ngơi, chừng nào còn có thể.’

   Họ cắm trại bên thềm sông Isen; chung quanh vẫn tịch mịch và vắng lặng. Vài người ngủ được một chút. Nhưng vào lúc đêm khuya, lính canh la lên, và tất cả bật dậy. Mặt trăng đã lặn. Các ngôi sao đang nhấp nháy trên trời; nhưng một bóng đen, thẫm hơn cả màn đêm, đang trườn trên mặt đất. Nó tiến về phía họ ở cả hai bờ sông, hướng về phía bắc.

   ‘Ở yên vị trí!’ Gandalf hô. ‘Không được đụng binh khí. Hãy chờ, nó sẽ qua đi!’

   Một làn sương mù vây lấy họ. Trên đầu họ, vài ngôi vẫn sáng mờ mịt; nhưng hai bên họ dựng lên những vách tối như hũ nút; họ đang ở trong một làn hẹp giữa những tháp bóng tối di động. Họ nghe thấy giọng nói, những tiếng thì thào và rền rĩ, tiếng thở dài xào xạc không dứt; mặt đất dưới chân họ đang rung chuyển. Họ ngồi đó và run sợ, tưởng như mọi thứ kéo dài vô tận, nhưng rồi rốt cục bóng tối cùng những tiếng rì rào cũng qua đi và biến mất vào giữa các khe núi.

 

   Về tít phía nam ở Hornburg, trong đêm, mọi người nghe thấy một tiếng động lớn, như một cơn cuồng phong trong thung lũng, và mặt đất chấn động; tất cả đều sợ hãi, không ai dám đi ra xem.

   Nhưng khi sáng đến, họ ra ngoài và kinh ngạc; vì đám xác Orc đã biến mất, cả khu rừng lạ cũng vậy. Xa xa phía thung lũng của Hẻm núi, cỏ bị giẫm nát và xéo đến xém lại, như thể những mục đồng khổng lồ đã lùa đàn gia súc đông đúc của họ đi qua; nhưng một dặm phía dưới Lũy, một cái hố to tướng bị đào vào lòng đất, và trên nó, đá chất thành gò. Mọi người tin rằng xác bọn Orc nằm chất đống hôm trước đã bị vùi trong đó; nhưng không ai biết liệu những tên Orc chạy vào khu rừng có chung số phận hay không, vì chưa có ai dám đặt chân lên cái gò đó. Sau này nó có tên là Gò Chết chóc, và không ngọn cỏ nào mọc trên đó. Nhưng đám cây lạ không bao giờ còn thấy bóng dáng ở Thung lũng Deeping nữa; chúng đã rời đi vào ban đêm, và về tới tận xa những vùng trũng tối tăm của Fangorn. Chúng đã báo thù bọn Orc như thế.

 

   Nhà vua và đoàn đồng hành không ngủ tiếp đêm đó; nhưng họ không nghe hoặc thấy thêm chuyện lạ lùng gì nữa, trừ một điều: âm thanh của dòng sông bên cạnh họ bỗng nhiên thức giấc. Tiếng nước hối hả xô xuống dọc nền đá; và sau đó, dòng Isen lại sủi bọt chảy tràn trên lòng sông, như nó vẫn hằng chảy.

   Vào lúc bình minh, họ lại sẵn sàng để đi tiếp. Ánh ngày trở nên nhạt nhòa và xám xịt, họ không nhìn thấy mặt trời mọc. Sương mù trĩu xuống trong không khí, và một làn khói bao phủ lấy vùng đất chung quanh họ. Họ phi trên con đường cái với tốc độ chậm hơn. Con đường khá rộng và chắc nền, và được bảo trì tốt.

   Qua làn sương, họ có thể nhận thấy lờ mờ những cánh núi dài dựng lên ở phía trái họ. Họ đã đi vào Nan Curunír, Thung lũng Pháp sư. Đó là một thung lũng được bao bọc, chỉ hở ra ở mé Nam. Nơi này từng xanh tốt, và dòng sông Isen sâu thẳm chảy ào ạt qua đây trước khi xuống đến đồng bằng, vì nó được tiếp nước bởi nhiều dòng suối nhỏ và những mạch nước trong rặng đồi hứng mưa, và chung quanh đó là một vùng đất màu mỡ.

   Giờ đây nó đã đổi khác. Bên dưới tường thành của Isengard, vẫn có những mẫu đất được nô lệ của Saruman vun trồng; nhưng phần lớn thung lũng đã trở thành một bãi hoang đầy cỏ dại và gai góc. Những bụi gai lê lết trên mặt đất, hoặc mọc leo lên các lùm bụi và gò đống, tạo thành những hốc bờm xờm cho các loài sinh vật nhỏ nương náu. Không có cây lớn nào mọc; nhưng giữa đám cỏ rậm rạp, thỉnh thoảng họ lại thấy những gốc cây cháy trụi hoặc bị chặt ngang sót lại từ những lùm cây cổ thụ. Một vùng đất tang thương, không còn tiếng động nào khác ngoài tiếng nước chảy trên đá. Khói và hơi nước trôi dạt theo những đám mây ủ rũ, lẩn quất trong các hốc núi.

   Các kị sĩ không nói năng gì. Nhiều kẻ trong số họ nghi hoặc trong lòng, tự hỏi chuyến đi của họ sẽ dẫn tới khung cảnh buồn thảm nào nữa.

   Khi họ đã phi qua được vài dặm, con đường cái mở rộng ra và được lát đá tảng nhẵn, vuông vức và khéo léo; không một lá cỏ nào mọc trên các kẽ đá. Những rãnh nước sâu chảy róc rách ở hai bên đường. Một cái cột cao đột ngột hiện ra trước họ. Nó đen tuyền; và trên đỉnh cột là một tảng đá lớn được tạc và tô vẽ theo hình một Bàn tay Trắng dài ngoẵng. Ngón tay của nó trỏ về phía bắc. Họ biết rằng cánh cổng của Isengard không còn xa nữa, trái tim họ thấy nặng nề; nhưng mắt họ không thể nhìn xuyên qua làn sương mờ phía trước.

   Bên dưới cánh núi, trong Thung lũng Pháp sư, một công trình cổ đã đứng nơi đây tự bao năm tháng mà Con Người gọi là Isengard. Nó được tạo thành một phần bởi dãy núi, nhưng Người Tây phương đã kì công xây nên nó từ thời xưa; Saruman đã ngụ ở đó từ rất lâu, và không hề ngơi nghỉ.

   Đây là kiểu cách của nơi này, khi Saruman còn đang ở đỉnh cao quyền lực, và được nhiều kẻ coi như thủ lĩnh của hội Pháp sư. Một vòng tường thành lớn bằng đá, như những bức vách chót vót, chìa ra từ cánh núi che chắn và chạy bao quanh. Lối vào duy nhất là một cổng vòm vĩ đại được khoét trên tường thành phía nam. Tại đó, một đường hầm dài được đục xuyên qua đá đen, hai đầu bít cửa sắt nặng. Chúng được đặt trên những bản lề khổng lồ, những cọc thép ăn vào trong lòng đá, để khi nào cửa không chốt thì chỉ một cú đẩy nhẹ có thể mở cửa ra không gây tiếng động.

   Ai đi vào và ra khỏi được đường hầm vang vọng, sẽ thấy một vành tròn rộng lớn bằng phẳng, trũng xuống như một lòng chảo, với đường kính một dặm. Nó từng tốt tươi và chằng chịt những con đường rợp bóng cây quả, được tưới tiêu bởi những dòng suối chảy từ núi xuống một cái hồ. Nhưng trong những ngày này của Saruman, không còn màu xanh ở đó. Đường đi được lát từng phiến đá, tối tăm và khô cứng; hai bên đường, thay vào cây cối là những hàng cột dài bằng cẩm thạch hoặc đồng và sắt, nối với nhau bằng những dây xích nặng.

   Nơi này có rất nhiều nhà cửa, phòng ốc, sân sảnh, lối đi, tất cả được đục và đào xuyên qua vách đá ở mặt trong, nên cả vùng lòng chảo được giám sát bởi vô số cửa sổ và cửa chính tối thui. Nơi này có thể chứa được hàng ngàn người ở: thợ, nô bộc, nô lệ, chiến binh với cả kho vũ khí; bọn sói được nuôi nhốt trong những hang sâu ở bên dưới.

   Cả cánh đồng cũng bị đào khoét. Những hầm lò ăn sâu vào trong lòng đất, nắp bên trên của chúng được che lại bởi các mô đất và vòm đá thấp, khiến cho Vòng thành Isengard nhìn dưới ánh trăng như một nghĩa địa của những người chết không yên nghỉ; vì nền đất thường rung chuyển. Những hầm lò chạy xuống nhiều đoạn dốc và cầu thang xoắn ốc cho tới những hang động ở tít sâu bên dưới; ở đó Saruman cất giữ châu báu, lương thảo, binh khí, xây lò rèn và lò luyện kim quy mô. Những bánh xe thép quay liên miên, và búa đập đe không ngớt. Vào ban đêm, những chùm hơi nước bốc lên khỏi lỗ thông hơi, ánh lên từ bên dưới với màu đỏ, hoặc lam, hoặc xanh như nọc rắn.

   Tất cả các lối đi đều dẫn về trung tâm, giữa những hàng xích. Ở đó đứng sừng sững một ngọn tháp có hình thù phi thường. Nó được xây theo lối thợ xưa, những người đã gọt giũa Vòng thành Isengard, nhưng đồng thời nó vẫn có dáng vẻ phi nhân tạo, dường như nó được chẻ ra từ mạch đá của rặng đồi trong những ngày quằn quại. Nó là một chỏm đá, một hòn đảo giữa lòng chảo, đen thẳm nhấp nhánh: bốn cái trụ lớn bằng đá nhiều mặt được cố kết lại thành một, nhưng ở gần đỉnh thì chúng mở ra như một dãy sừng hở. Chỏm tháp nhọn hoắt như mũi giáo, và sắc cạnh như lưỡi dao. Ở giữa chúng là một khoảng hẹp, một sàn đá được đánh nhẵn, khắc nhiều dấu hiệu kì lạ, trên đó một người có thể đứng ở tầm cao năm trăm bộ so với đồng bằng. Đó là Orthanc, thành trì của Saruman, một cái tên có hai nghĩa, do cố ý hoặc do tình cờ: trong tiếng Elf, orthanc mang nghĩa Mỏm Nanh nhọn, còn trong ngôn ngữ cổ xứ Mark thì nó lại có ngụ ý là Trí óc Giảo hoạt.

   Isengard từng là một đồn lũy kiên cố và một thắng cảnh tuyệt diệu; ở đó từng có những vị lãnh chúa cao quý cư ngụ, các thống đốc của Gondor ở miền Tây, những nhà thông thái tới ngắm thiên văn. Nhưng Saruman đã dần lái nó theo mục đích mới của lão, và làm cho nó trở nên hùng mạnh hơn, theo lão nghĩ.

   Nhưng lão đã nhầm, bởi tất cả những kỹ nghệ tinh xảo và thiết bị tân kỳ đó, vì chúng mà lão từ bỏ trí khôn vốn có, vì chúng mà lão tưởng mình sáng chế vĩ đại, thực chất chúng đều tới từ Mordor; thế nên những gì lão tạo ra chỉ là con số không, một bản sao tầm thường, một mô hình ấu trĩ hoặc một sản phẩm xu nịnh của kẻ nô tài, so với pháo đài đồ sộ của bản gốc. Barad-dûr, Tòa tháp Hắc ám, với xưởng vũ khí và nhà tù riêng, với những lò lửa lớn, Barad-dûr không chấp nhận bất cứ kẻ nào đứng ngang hàng, nó cười nhạo những sản phẩm xu nịnh, nó ngạo nghễ đứng chờ thời với sức mạnh khôn cùng của nó.

   Đó là dinh lũy của Saruman, như thiên hạ vẫn đồn; vì trong kí ức của những người còn sống, chưa có ai ở Rohan từng đi vào trong cánh cổng này, có thể là trừ ra một vài kẻ, chẳng hạn như Lưỡi Rắn, những kẻ chỉ bí mật đi vào mà không kể với ai những gì chúng nhìn thấy.

 

   Lúc này Gandalf đã phi ngựa tới cây cột lớn của Bàn tay Trắng, và vượt qua nó: khi đó các Kị sĩ ngạc nhiên nhận ra rằng Bàn tay không còn mang màu trắng. Nó lấm tấm máu khô; và khi nhìn gần họ thấy rằng móng tay nó sậm đỏ. Gandalf không để tâm đến nó, ông đi vào trong màn sương mù, và họ e ngại phi theo ông. Chung quanh họ, như thể một cơn lũ vừa đột ngột quét qua, có những hố nước rộng nằm bên cạnh con đường, nước ngập đầy những hốc trũng, và chảy ri rỉ xuống các khe đá.

   Cuối cùng, Gandalf dừng ngựa và ra hiệu cho họ, họ tới gần ông và nhận thấy rằng, phía trước ông sương mù đã tan, và ánh mặt trời yếu ớt chiếu xuống. Đã quá chính ngọ. Họ đã đến được cánh cổng của Isengard.

   Nhưng những cánh cổng đã bị lật nhào và đang nằm chỏng chơ trên mặt đất. Xung quanh đó, những tảng đá bị vỡ ra thành muôn mảnh vụn lởm chởm, vương vãi tung tóe khắp nơi hoặc được chất đống ngổn ngang. Mái vòm lớn vẫn còn đó, nhưng nó mở vào một cái hốc không mái che: đường hầm bị phơi ra trơ trụi, và những bức vách như dốc đá ở hai bên mang đầy vết nứt toạc. Dẫu Biển cả có nổi trận lôi đình và dội sóng lên rặng đồi cũng không thể gây ra thiệt hại lớn hơn thế.

   Bên trong vòng thành, hơi nước bốc đầy: như một cái vạc sôi sùng sục, với những cột kèo đổ nát nổi lềnh bềnh, và những hòm xiểng cùng thiết bị gãy trôi giạt. Những cái trụ lớn bị xô nghiêng, xiêu vẹo ngoi lên khỏi mặt nước lũ, nhưng tất cả những con đường đều bị đánh chìm. Mỏm đá chính hiện lên lờ mờ trong màn hơi cuộn xoáy, như thể nó ở rất xa. Ngọn tháp Orthanc vẫn sừng sững đứng đó, tối tăm và cao vút, không bị hư hại sau cơn bão. Làn nước đục ngầu vỗ bập bềnh vào chân tháp.

   Nhà vua và đoàn đồng hành ngồi lặng đi trên yên ngựa, kinh ngạc nhận ra rằng quyền lực của Saruman đã bị nhổ bỏ, nhưng bằng cách nào thì họ không thể đoán ra. Rồi họ đưa mắt nhìn về phía mái vòm và cánh cổng vỡ. Ở đó, họ thấy một đống lớn đá vụn ở ngay cạnh họ, và họ đột nhiên nhận ra rằng có hai hình thù nhỏ bé đang nằm dài khoan khoái trên đó, ăn vận xám, rất khó để phân biệt với màu đá chung quanh. Vỏ chai và bát đĩa bày la liệt bên cạnh hai kẻ này, dường như họ vừa đánh chén no say và chuẩn bị làm giấc. Một kẻ đang ngủ, kẻ kia ngồi dựa vào một tảng đá vỡ, bắt chéo chân và kê cánh tay sau đầu, miệng nhả ra những làn khói nhỏ và vòng khói mảnh màu lam.

 

   Théoden và Éomer cùng tất cả binh lính nhìn chằm chằm vào hai kẻ này, không tin vào mắt mình. Trong quang cảnh đổ nát của Isengard, cảnh tượng này mới là lạ lùng nhất với họ. Nhưng trước khi nhà vua kịp nói gì, kẻ nhỏ bé vừa nhả khói đã nhận ra sự có mặt của họ, khi họ đang ngồi lặng lẽ trên yên ngựa bên lề của màn sương.

   Anh ta nhỏm ngay dậy. Anh ta giống như một thanh niên, hoặc mang dáng vẻ như thế, nhưng không cao quá nửa người thường; anh ta không đội mũ trên mái đầu tóc nâu loăn xoăn, nhưng anh ta mặc áo choàng bộ hành lấm tấm bùn với cùng kiểu cách và tông màu như ba người bạn đồng hành của Gandalf vẫn mặc khi họ phi ngựa tới Edoras. Anh ta cúi người xuống rất thấp, đặt tay trước ngực, tỏ vẻ không nhìn thấy vị pháp sư và ba người bạn đồng hành, anh ta hướng tới Éomer và nhà vua.

   ‘Chư vị, xin đón chào tới Isengard!’ anh ta nói. ‘Chúng tôi là những người gác cổng. Tên tôi là Meriadoc, con trai của Saradoc; và anh bạn đây của tôi, ô hô! người đang căng da bụng trùng da mắt’ – anh ta lấy chân khẽ hích kẻ kia – ‘là Peregrin, con trai của Paladin, thuộc dòng họ Took. Quê chúng tôi vốn ở xa tít phương Bắc. Đức ông Saruman đang ở trong kia, nhưng vào lúc này đức ông đang hội ý riêng với một Lưỡi Rắn nào đó, nếu không thì đức ông đã đích thân ra đây để nghênh đón chư vị khách quý.’

   ‘Hẳn nhiên là lão muốn ra rồi!” Gandalf cười vang. ‘Có phải Saruman đã lệnh cho hai cậu gác cánh cổng vỡ của hắn, và canh chừng lúc khách đến, nếu như hai cậu có thể dứt tâm trí ra khỏi bát đĩa và vỏ chai?’

   ‘Không đâu, thưa ông khách thân mến, lão ta không có lòng dạ nào nghĩ đến chuyện này,’ Merry trả lời nghiêm trang. ‘Chúng tôi nhận lệnh từ Treebeard, người đang nắm toàn quyền ở Isengard. Cụ ấy bảo chúng tôi ra đón Chúa tể của Rohan với những lời tôn kính. Tôi đã làm tròn phận sự.’

   ‘Thế còn những kẻ từng đồng hành với cậu thì sao? Cậu tính thế nào với tôi và Legolas?’ Gimli la lên, không nhịn nổi lâu hơn. ‘Hai cậu nhóc này, đồ lêu lổng rậm chân rậm đầu! Hai cậu đã khiến bọn tôi phải đuổi theo bở hơi tai! Hai trăm dặm lý, xuyên qua những đầm lầy và rừng cây, qua những trận chiến sinh tử, để giải cứu các cậu.

   Thế rồi tôi tới và thấy hai cậu ở đây ăn uống chè chén – và hút tẩu nữa! Hút tẩu! Các cậu lấy thuốc nhồi tẩu ở đâu ra vậy, hở đồ xấu tính? Búa và kìm ta ơi! Tôi không biết nên mừng hay nên cáu, tôi mà không nổ tung ra mới lạ đấy!’

   ‘Anh nói thay tôi rồi đấy, Gimli!’ Legolas phá lên cười. ‘Mặc dù điều tôi muốn biết nhất là họ kiếm rượu vang từ đâu.’

   ‘Các anh không khôn ra sau cuộc săn đuổi gì cả,’ Pippin nói, mở hé một mắt. ‘Các anh đang thấy chúng tôi ngồi ở nơi thắng trận, giữa những chiến lợi phẩm đoạt được, thế mà các anh lại hỏi mấy món thành quả này ở đâu ra.’

   ‘Thành quả?’ Gimli hỏi. ‘Tôi thật không tin nổi!’

   Các Kị sĩ cười to. ‘Rõ ràng là chúng ta đang chứng kiến cuộc tái ngộ của những người bạn thân thiết,’ Théoden nói. ‘Vậy ra đây là những người bị bắt đi trong hội đồng hành của ông hở Gandalf? Số phận mang tới bao kì diệu cho những ngày này. Ta đã thấy rất nhiều kể từ lúc ta rời khỏi cung điện; và giờ đây ngay trước mắt ta là một giống loài khác chỉ có trong truyền thuyết. Đây có phải là những Halfling, mà một số người dân xứ ta vẫn gọi là Holbytlan?’

   ‘Xin vui lòng gọi là hobbit, thưa ngài,’ Pippin nói.

   ‘Hobbit?’ Théoden hỏi. ‘Tiếng của các cậu khá khác thường, nhưng cái tên thì nghe không đến nỗi xa xôi. Hobbit! Không có lời đồn thổi nào mà ta từng nghe lại đạt đến sự thật này cả.’

   Merry cúi mình, còn Pippin đứng dậy và cũng cúi chào. ‘Ngài thật tử tế, thưa lãnh chúa; tôi hy vọng tôi hiểu đúng ý ngài,’ cậu đáp. ‘Và đây là một điều khác thường đối với chúng tôi: tôi đã đi qua rất nhiều miền đất kể từ khi tôi ra khỏi làng, và cho đến tận bây giờ tôi chưa gặp ai biết bất cứ chuyện gì về hobbit cả, trừ ngài.’

   ‘Người xứ ta cũng tới từ phương Bắc cách đây không lâu,’ Théoden nói. ‘Nhưng ta không muốn làm cậu mừng hụt: chúng ta không biết chuyện gì về hobbit đâu. Chúng ta chỉ truyền tụng với nhau rằng, ở một nơi xa rất xa, qua nhiều con sông ngọn núi, có một giống người nhỏ bé sống trong lỗ đào dưới những đụn cát. Nhưng không có câu chuyện nào kể cụ thể về họ. Vì người ta nói rằng, giống loài này không can dự vào đại sự, và lẩn tránh Con Người, rằng họ có thể biến mất trong nháy mắt, có thể đổi giọng cho giống với tiếng chim kêu chiêm chiếp. Nhưng có vẻ sự thật còn nhiều điều hơn thế.’

   ‘Rất có thể, thưa ngài,’ Merry nói.

   ‘Một điều trong số đó là,’ Théoden nói, ‘ta chưa từng nghe rằng họ có thể thở ra khói bằng mồm.’

   ‘Tôi không lấy làm lạ,’ Merry đáp, ‘vì chúng tôi không hút tẩu từ nhiều đời nay rồi. Thực chất cụ Tobold Hornblower ở làng Longbottom ở miền Southfarthing là người đầu tiên đã trồng cây thuốc tẩu trong vườn, khoảng năm 1070 trong lịch của chúng tôi. Cụ Toby tìm ra cây thuốc này như thế nào…’

   ‘Théoden, ngài chưa biết nguy cơ của ngài đâu,’ Gandalf ngắt lời. ‘Hai cậu hobbit này sẽ ngồi bên đống đổ nát và con cà con kê về chuyện ăn uống bếp núc, về chiến công vặt của cha ông cụ kị họ, về những anh em con cô con cậu đời thứ chín thứ mười, nếu ngài khuyến khích họ và kiên nhẫn lắng nghe. Lúc khác sẽ thích hợp hơn để nghe về lịch sử cây thuốc tẩu. Treebeard đang ở đâu vậy Merry?’

   ‘Ở phía bắc đằng kia, tôi chắc thế. Cụ ấy tới đó để uống nước trong. Phần lớn các Ent đi cùng cụ ấy đang bận lao động – ở kia kìa.’ Merry vẫy tay về phía cái hồ đang bốc khói; họ nhìn ra đó, và họ nghe thấy một âm thanh rào rào ở đàng xa như thể núi lở. Vọng lại một tiếng hum-hom, giống như tiếng kèn thắng trận.

   ‘Vậy thì không ai gác Orthanc à?’ Gandalf hỏi.

   ‘Nó bị nước vây quanh mà,’ Merry đáp. ‘Nhưng Quickbeam và một số khác đang trông chừng nó. Không phải mọi cây cột và trụ ở cánh đồng này đều do Saruman trồng nên đâu. Tôi nghĩ rằng Quickbeam đang đứng cạnh mỏm đá kia kìa, gần chân cầu thang.’

   ‘Phải, có một Ent cao lớn màu xám đứng đó,’ Legolas nói, ‘nhưng cánh tay ông ta buông thõng, và trông ông ta như thể một cái trụ cổng.’

   ‘Quá trưa rồi,’ Gandalf nói, ‘và chúng ta chưa ăn uống gì từ sáng sớm. Nhưng ta muốn được gặp Treebeard càng sớm càng tốt. Cụ ấy có nhắn gì ta không, hay là chén bát chai lọ đã làm hai cậu quên khuấy rồi?’

   ‘Cụ ấy có nhắn ông,’ Merry đáp, ‘và tôi đang định nói đây, nếu không vì các vị tra hỏi tôi nhiều thứ quá. Tôi định nói rằng, nếu Chúa tể xứ Mark và Gandalf phi ngựa tới tường thành phía bắc, họ sẽ gặp Treebeard ở đó, và cụ ấy sẽ đón chào họ. Tôi xin nói thêm rằng, ở đó họ sẽ tìm thấy những thức ăn tốt nhất, được những kẻ phục vụ nhỏ bé này phát hiện ra và chọn lọc.’ Cậu cúi mình.

   Gandalf cười. ‘Tốt hơn rồi đấy!’ ông nói. ‘Nào, Théoden, ngài có muốn đi cùng ta tới gặp Treebeard? Chúng ta sẽ phải đi vòng, nhưng không xa đâu. Khi ngài gặp Treebeard, ngài sẽ học hỏi được nhiều. Vì Treebeard là Fangorn, là kẻ già cả nhất và đứng đầu các Ent, khi ngài nói chuyện với cụ ấy, ngài sẽ nghe được lời của sinh vật sống cao tuổi nhất.’

   ‘Ta sẽ đi cùng ông,’ Théoden nói. ‘Giã biệt, những hobbit của ta! Mong rằng chúng ta sẽ gặp lại trong cung điện của ta. Ở đó các cậu có thể ngồi cạnh ta và kể ta nghe tất cả những gì các cậu muốn: chiến công của cha ông các cậu, cho đến đời xa nhất mà cậu nhớ được; rồi chúng ta sẽ nói chuyện về cụ Tobold Già và cây cỏ của cụ ấy. Tạm biệt!’

   Hai hobbit cúi chào rất thấp. ‘Vậy ra đây là Đức vua của Rohan!’ Pippin nói khẽ. ‘Một ông lão đáng kính. Rất lịch thiệp.’

Hết chương VIII

<- Chương trước                                                                                                          Chương tiếp theo ->

Quay trở về truyện Chúa tể của những chiếc Nhẫn

Thông tin bài viết

  • Bản gốc: "The Lord of the Rings: The Two Towers" của J.R.R. Tolkien
  • Người dịch : Proud Foot
  • Ngày đưa lên: 12-4-2014
  • Lưu ý : Xin vui lòng không edit trang này. Nếu bạn đăng lại bài viết, đề nghị ghi tên dịch giả và dẫn link nguồn
Advertisement