Chương 1
Những vị khách không mời
Thưở nọ, có một hobbit sống trong “lỗ” nhà mình dưới lòng đất. Bạn chớ nghĩ đó là một cái “lỗ” bẩn thỉu và ẩm thấp, nơi đuôi giun và rễ cây thò ra từ bốn phía, bốc mùi khó ngửi. Mà đó cũng chẳng phải một “lỗ” trong vùng cát khô, nơi không có gì ăn được và cũng chẳng ăn được thứ gì. Không, “lỗ” của chúng ta là một lỗ hobbit, và điều đó có nghĩa là no đủ.
Nó khởi đầu từ một cánh cửa rất tròn, giống lỗ mạn thuyền, được sơn màu xanh lá, với tay nắm đồng sáng lấp lánh ở giữa. Cửa mở vào trong, thẳng tới một hành lang dài, gần giống như một đường hầm xe lửa ngày nay. Nhưng đường hầm này không có khói, cũng chẳng có bụi, lại rất ấm cúng: tường được lát gỗ tấm, sàn lát gạch và có thảm phủ trên; dọc theo tường là những ghế gỗ bóng xếp hàng, khắp nơi đóng đầy mắc áo để treo mũ và áo khoác – dân hobbit vốn rất hiếu khách. Đường hầm này cứ kéo dài, kéo dài mãi xuống dưới, nhưng chưa đến tâm của Vùng Đồi, như dân nhiều dặm quanh đây quen gọi. Dọc hai bên đường hầm có nhiều, rất nhiều những cửa tròn, cái này kế tiếp cái kia. Hobbit không ưa cầu thang: tất tật nào phòng ngủ, phòng tắm, nào kho chứa đồ (cả dãy kho chứa đồ), phòng chứa quần áo (hobbit dành hẳn vài phòng để giữ quần áo), nào nhà bếp và nhà tắm, đều nằm gọn ở một tầng, nói cho đúng thì cùng nằm trong hành lang trên cả. Những phòng tốt nhất nằm bên tay trái, và chỉ riêng những phòng này có cửa sổ bên trong – những cửa sổ sâu, hình tròn, nhìn ra vườn và những trảng cỏ xanh chạy dài xuống mé sông.
Gã hobbit của chúng ta là một hobbit “con nhà lành” thuộc họ Baggins. Nhà Baggins đã sống ở vùng ven Đồi từ thưở nảo thưở nào tới giờ và luôn được coi như một gia đình danh giá. Phần vì đa số họ giàu có, phần vì họ chưa từng rơi vào những cảnh éo le hay chơi trò lập dị. Không hỏi, bạn cũng biết trước dân họ Baggins sẽ đáp những gì.
Nhưng tôi sẽ kể bạn nghe chuyện về một gã trong họ Baggins, người cuối cùng cũng đã bị cuốn vào một cuộc phiêu lưu, hắn đã miệng nói tay làm những việc khó ngờ. Có thể hắn sẽ mất đi sự kính trọng của xóm giềng, nhưng bù lại hắn lại có đủ... À vâng, tự bạn sẽ thấy kết cục hắn có được gì chăng.
Mẹ của gã hobbit này... Ồ, hobbit là gì nhỉ? Có lẽ cũng nên kể chi tiết hơn về hobbit, bởi trong thời của chúng ta, dân này đã thành của hiếm và luôn tránh mặt những Người Cao (họ gọi loài người chúng ta như vậy). Tự thân hobbit là một dân tộc thấp bé, khoảng phân nửa so với người thường, và thấp hơn người dwarf lùn râu rậm. Dân hobbit không có lấy một sợi râu. Và nói chung cũng không có gì kì bí ở tộc người này, họa chăng là khả năng ẩn mình nhanh chóng và không tiếng động khi những kẻ thô lỗ, dạng như tôi hay bạn, dạo bước và dẫm đạp gây ầm ỹ, khiến dân hobbit nghe rõ từ xa. Dân hobbit dễ mập bụng; họ ăn mặc sặc sỡ, thường khoái màu vàng và xanh lá; hobbit không đi giầy, bởi trời sinh hobbit ra dưới chân đã có một lớp da cứng và một lớp lông nâu mềm ấm phủ đầy trên mu chân, cùng loại với lông đầu (có điều lông trên đầu họ thường xoăn tít); hobbit có những ngón tay nâu, dài và khéo léo, khuôn mặt dễ ưa và thường cười rất ngọt (nhất là sau bữa tối, mà họ vẫn ăn ngày tới hai lần nếu có dịp).
Giờ bạn đã biết đủ về hobbit và chúng ta có thể tiếp tục câu chuyện. Như tôi đang kể, mẹ của gã hobbit này – nghĩa là Bilbo Baggins – chính là Belladonna Took lừng danh. Bà là một trong ba người con gái đáng nể của Già Took, thủ lĩnh dân hobbit Phía Bên Kia Sông – dòng sông nhỏ chảy dưới Đồi.
Vẫn có lời đồn (trong các gia đình khác) là ngày xửa ngày xưa, một người trong dòng họ Took đã lấy vợ tiên. Chuyện này dĩ nhiên là hoang đường, nhưng cho tới giờ trong dòng họ Took vẫn có chút gì đó không hoàn toàn hobbit: lúc này hay lúc khác, một người nào đó trong dòng họ Took lại ra đi để tìm kiếm những cuộc phiêu lưu. Hắn lặng lẽ biến mất và gia đình lại ra sức che đậy sự vụ này. Gì thì gì, họ Took vẫn không được coi trọng như họ Baggins, mặc dù rõ ràng là họ giàu hơn.
Sau khi lấy chồng, ông Bungo Baggins, xin bạn chớ nhầm rằng bà lại tham dự vào các cuộc tìm kiếm phiêu lưu. Được Bungo, cha của Bilbo – nhân vật chính của chúng ta, xây cho một “lỗ” hobbit xịn nhất cả Trên Đồi lẫn Dưới Đồi, lẫn Phía Bên Kia Sông (một phần cũng dựa vào tiền của bà), hai người đã sống ở đó cho đến cuối đời. Nhưng Bilbo, con trai duy nhất của bà, dù mọi cử chỉ và hành động đều giống hệt như một bản sao của người cha yên phận và đáng kính, vẫn kế thừa chút gì trong dòng máu của họ nhà Took, một chút gì lạ lùng, và như chỉ chờ dịp để bộc lộ ra.
Nhưng cơ hội đó vẫn chưa đến, cho tới khi Bilbo Baggins đã trưởng thành, tuổi đâu vào khoảng năm mươi. Gã vẫn sống trong cái “lỗ” hobbit do cha dựng nên, cái lỗ tôi đã có dịp mô tả cặn kẽ ở đầu chương, và trông có vẻ đã “mọc rễ” trong cái “lỗ” đó.
Số phận đẩy đưa, vào một buổi sáng đẹp trời kia, khi vạn vật còn tĩnh lặng, khi chỉ có một chút tiếng ồn và biết bao màu xanh, và họ nhà hobbit vẫn còn đông vô số và thịnh vượng, Bilbo đang đứng tựa cửa nhà sau bữa sáng, hút tẩu thuốc gỗ của mình, một tẩu thuốc thật dài, đến gần chấm bàn chân lông lá của gã (cần nói thêm là lông đã được chải kĩ) - Gandalf chợt dạo bước ngang qua.
Gandalf chính thị! Nếu bạn chỉ nghe một phần tư những gì tôi được nghe về lão (mà tôi cũng chỉ biết chút xíu thôi) thì coi như bạn đã sẵn sàng để nghe những chuyện kì lạ nhất trần đời. Những câu chuyện truyền miệng và các cuộc phiêu lưu mọc như nấm sau mưa tại mỗi nơi lão đi qua, thật kì dị lạ lùng. Lão không đi trên con đường này đã bao kiếp người, từ cái thời mà Già Took bạn lão chết đi. Lâu đến nỗi nhiều hobbit cũng không còn nhớ rõ hình dáng lão ra sao. Lão đã biến mất tăm, lo việc riêng của mình, từ dạo ấy, dạo những hobbit ngày nay còn là những nhóc con.
Và vào đúng buổi sáng ấy, Bilbo của chúng ta, cái gã vô tâm vô tính, chỉ thấy trước mặt mình là một lão già đang chống gậy. Lão đội chiếc mũ cao xanh thẫm, áo choàng xám dài, quàng khăn cổ màu bạc lấp lánh, đi một đôi ủng đen khổng lồ, còn bộ râu trắng xóa của lão dài tới dưới thắt lưng.
“Buổi sáng thật tốt lành” - Bilbo buông một câu, ý gã muốn tán dương buổi sáng thật đẹp này: mặt trời chiếu rực rỡ và cỏ lên xanh ngắt.
Nhưng cái nhìn của Gandalf lại sắc lẻm dưới cặp lông mày dài rậm rạp, thò ra dưới vành mũ:
“Anh muốn nói gì?” - lão hỏi – “muốn chúc ta buổi sáng tốt lành à? Hay anh đang khẳng định hôm nay trời đẹp, dù ta có thấy vậy hay không cũng bất cần? Hay anh cho rằng vào buổi sáng nay, mọi việc cần tốt đẹp?”
“Tôi ngụ ý tất cả” - Bilbo nói. “Sáng nay còn thật tuyệt để kéo vài hơi thuốc ngoài trời. Nếu ông có mang theo tẩu, mời ngồi và dùng thử thuốc của tôi. Vội vã làm chi, cả ngày dài còn nguyên trước mặt.”
Bilbo ngồi xuống chiếc ghế nhỏ cạnh cửa, xếp chéo chân hút thuốc và bắt đầu thả những vòng khói xám tuyệt đẹp. Khói bốc lên cao, bay xa lên phía trên Đồi.
“Tuyệt đẹp!” - Gandalf nói - “Nhưng hôm nay ta không rảnh để thả khói đâu. Ta cần tìm người tham dự vào một chuyến viễn du, nhưng tìm hắn xem ra cũng chẳng dễ dàng gì.”
“Chứ sao nữa, ai lại đi tìm ở xứ này. Dân ở đây hiền lành, đơn giản, chúng tôi chả mơ gì những thứ phiêu lưu. Ôi dà, chỉ toàn rắc rối, bất hạnh với trò đó thôi! Lại còn không được ăn đúng bữa nữa chứ. Tôi chẳng hiểu sao người ta lại khoái được món này”. Ông bạn Bilbo của chúng ta nói vậy, đút thêm một ngón tay vào dây đeo quần, rồi thả thêm một vòng khói rõ lớn.
Gã rút tờ báo buổi sáng ra, chăm chú đọc, ra cái điều không để ý gì đến lão già nữa. Gã đã luận ra lão già không phải “người mình” và chỉ muốn lão biến đi cho rảnh nợ. Nhưng lão già chẳng buồn động đậy. Lão tựa người trên cây gậy chống và nhìn chăm chú vào gã hobbit, nhìn mãi cho đến khi Bilbo thấy khó chịu và bắt đầu nóng mặt.
“Chúc ông buổi sáng tốt lành” - cuối cùng gã thốt ra. “Bọn dân tôi đây chả thiết phiêu lưu! Ông tìm người khác Phía Sau Đồi hay Phía Bên Kia Sông đi.”
Gã muốn lão già hiểu là câu chuyện đã kết thúc.
“A, câu 'chúc buổi sáng tốt lành' của quý ngài đây đa nghĩa gớm”, Gandalf nói. “Giờ thì anh muốn ta cuốn xéo khỏi đây, và buổi sáng sẽ chưa tốt lành cho tới khi ta mất dạng?”
“Không phải vậy, không phải vậy, thưa quý ngài. Xin lỗi, hình như tôi còn chưa hân hạnh được biết tên ngài.”
“Hân hạnh, hân hạnh thay, thưa quý ngài. Còn ta thì biết anh, ông Bilbo Baggins ạ. Phần anh, dù có thể anh không còn nhớ, cũng đã từng biết tên ta. Ta là Gandalf, còn Gandalf – chính thị là ta! Trời đất ạ, đã đến thời mà con trai của Belladonna Took cũng muốn đuổi ta đi bằng câu 'buổi sáng tốt lành', cứ như thể ta đang bán cúc áo dạo vậy”.
“Gandalf, trời cao đất dày ơi, chính là ngài Gandalf! Không lẽ ngài chính là pháp sư viễn du Gandalf đó ư, người đã cho ông ngoại ta, Già Took ấy, một cặp khuy cài kim cương huyền diệu, vẫn tự cài và chỉ cởi ra khi có lệnh ư? Chính là người đã kể bao chuyện thần kỳ về lũ khổng lồ, bọn goblin, lũ rồng thiêng, về những nàng công chúa được giải thoát, về những may mắn bất ngờ của con trai người quả phụ ư? Chẳng phải chính người đã tổ chức bao đêm pháo hoa huyền diệu đó sao. Tôi vẫn còn nhớ mà. Già Took đã tổ chức những buổi pháo hoa vào đêm hạ chí. Ôi, thật tráng lệ. Pháo hoa nổ tung, nào hoa huệ lửa khổng lồ, nào hoa sư tử chói ngời, nào hoa kim tước, cứ sáng chói và lơ lửng suốt đêm”.
Bạn thấy đấy, Bilbo của chúng ta không đến nỗi thờ ơ như gã thường ra vẻ, và gã cũng rất yêu hoa đấy chứ.
“Trời ạ” - gã tiếp tục - “ông chính là Gandalf, người biết rõ hơn ai hết về bao gã trai, bao cô gái đã biến đi tới tận nẻo nào để tìm kiếm những cuộc phiêu lưu quỷ quái. Nào leo cây, nào tới thăm đám người Elf, - rồi còn chèo thuyền đi đến những chốn nảo chốn nào ấy chứ. Có trời chứng giám, thời đó hấp dẫn biết... - tôi muốn nói là thời đó ngài đã đảo tung mọi chuyện ở xứ này. Xin phép ngài, tôi không biết ngài vẫn còn đang hành sự”.
“Thế ta còn biết làm gì nữa đây” - pháp sư hỏi - “Dẫu sao cũng dễ chịu khi biết anh còn nhớ ta đôi chút. Ít ra anh còn nhớ những buổi pháo hoa. Vậy là ta còn có cơ hi vọng ở đất này. Thôi được, vì Già Took, và vì Belladonna quá cố, ta sẽ cho anh những gì anh cầu xin”.
“Xin phép ngài, nhưng tôi chưa hề cầu cạnh điều gì!”
“Có đấy anh bạn, tới hai lần lận – anh xin phép ta. Ta chấp thuận. Và hơn thế nữa, ta sẽ cho anh tham dự vào cuộc phiêu lưu của ta. Ta thấy thú vị đấy, còn anh sẽ được nhiều điều bổ ích. Có khi còn có lợi nữa, nếu anh theo được đến cùng”.
“Xin lỗi ngài, nhưng sao tôi thấy không ưng, có lẽ để dịp khác vậy. Chúc mọi việc tốt lành. Lúc nào rảnh, mời ngài ghé dùng trà. Cứ cho là vào ngày mai nhé. Mai mời ngài lại chơi. Tạm biệt.”
Nói xong, gã hobbit quay lưng, tìm cánh cửa tròn màu xanh và nhanh chóng đóng chặt lại, cố tỏ ra không thô lỗ. Gì thì gì, pháp sư cũng là pháp sư.
“Có trời biết sao ta lại mời lão uống trà” - gã tự rủa trên đường xuống kho. Thật ra Bilbo cũng mới xong bữa sáng, nhưng với cuộc trao đổi gay cấn vừa qua, gã nghĩ một hai chiếc bánh ngọt cộng thêm chút đồ uống sẽ giúp mình qua cơn sợ.
Trong lúc đó Gandalf vẫn đứng lại bên cửa và cười ngả nghiêng trong im lặng. Sau một lát, lão lại gần và lấy đầu nhọn cây gậy chống khắc một dấu hiệu kì quặc lên cánh cửa xinh xắn màu xanh. Rồi lão bỏ đi, vừa đúng khi Bilbo ăn xong chiếc bánh thứ hai và đang tự khen thầm – cách mình thoát khỏi các cuộc phiêu lưu mới khéo léo làm sao.
Vào ngày kế tiếp gã tuồng như đã quên hẳn Gandalf. Trí nhớ của gã không được tốt. Thường khi, gã đã phải ghi lại trong sổ, đại loại như “Gandalf, thứ tư, uống trà”. Nhưng hôm qua gã quá hồi hộp nên chẳng viết lách gì.
Ngay vào lúc gã chuẩn bị uống trà, chuông cửa chợt réo vang, và Bilbo sực nhớ ra mọi chuyện! Gã nhảy bổ vào bếp để đặt thêm ấm nước, nhặt thêm dĩa tách và một hai chiếc bánh ngọt, rồi hộc tốc ra mở cửa.
Câu “xin lỗi vì bắt ngài chờ lâu” đã sẵn trên cửa miệng thì gã bỗng nhận ra đó không phải Gandalf, mà đó là một người dwalf lùn với bộ râu xanh đút gọn trong dây thắt lưng vàng, mắt sáng lên dưới mũ trùm đầu xanh lá sậm. Cửa vừa mở, lão lùn đã đẩy vào, như thể hắn đang được chờ đón tại đây.
Lão lùn cởi áo trùm ngoài, treo lên mắc gần nhất, rồi cúi đầu thật thấp, lão nói: “Dwalin xin được hầu ngài”.
“Bilbo Baggins hân hạnh phục vụ ngài!”. Gã hobbit nói, ngạc nhiên đến mức lắp bắp. Khi im lặng đã trở nên nặng nề, gã nói thêm: “Vừa hay lúc tôi uống trà, xin mời ngài quá bộ và dùng với tôi một chén”. Kể cũng hơi kiểu cách, nhưng gã quả có hảo ý. Mà thực ra, liệu bạn biết làm gì, nếu có một lão lùn dwarf đến nhà và tự tiện treo đồ trong phòng khách, không một lời giải thích?
Họ chẳng ngồi nhâm nhi được bao lâu, vẫn chưa ăn được đến chiếc bánh thứ ba, chuông cửa lại réo lên, mà có phần còn to hơn trước.
“Xin lỗi ngài” – gã hobbit nói và chạy ra phía cửa trước.
“Ấy, cuối cùng thì ngài cũng tới rồi!” gã đã nhẩm sẵn lời để nói với Gandalf. Nhưng lại không phải Gandalf. Thay vào đó là một lão lùn dwarf, trông già nua với một bộ râu trắng và chiếc mũ đỏ thắm đang đứng trên bậc cửa. Lão nhảy bổ ngay vào nhà khi cửa chỉ vừa hé mở, tuồng như lão được mời đến vậy.
“Ta thấy quân ta đã bắt đầu tụ tập ở đây rồi”, lão nói khi thấy chiếc mũ trùm của Dwalin treo trên vách. Lão móc mũ của mình lên cạnh đó rồi xếp tay ngang trước ngực, lão nói: “Balin xin được hầu ngài”.
“Cám ơn lão” – Bilbo nói, ngạc nhiên cùng cực. Dĩ nhiên gã đáp không đúng cách lắm, nhưng câu “quân ta tụ tập” đã làm gã choáng hết người. Gã là dạng người mến khách, nhưng gã muốn biết rõ khách của mình trước khi họ đến, và gã muốn tự mời họ cơ. Trong đầu gã thoáng qua một tia sợ hãi, nhỡ bánh ngọt trong nhà không đủ thì sao – và khi đó chính gã (bởi gã biết rõ bổn phận của chủ nhà) sẽ phải nhịn món bánh ngọt thôi.
“Lão vào đi, ta cùng uống trà nhé.” – mãi gã mới thốt ra lời, sau khi đã hít thở thật sâu.
“Ta thì ưa một vại bia hơn, dĩ nhiên nếu ông bạn có sẵn” – Balin râu bạc nói – “nhưng ta cũng không từ chối một hai chiếc bánh ngọt rắc nho khô, nếu không phiền quá”.
“Nhà có sẵn mà!” – Bilbo thốt ra, ngạc nhiên với chính mình. Gã còn tự ngạc nhiên hơn khi thấy mình chạy bay xuống hầm, đổ đầy vại bia, nhặt thêm hai chiếc bánh ngọt phủ nho khô ngon tuyệt (được nướng riêng cho gã dùng “sau bữa tối”) rồi hối hả chạy lên.
Trong phòng ăn, Balin và Dwalin đang ngồi sau bàn trò chuyện như đôi bạn cũ (thực ra thì họ là anh em). Bilbo chỉ vừa kịp đặt vại bia và chiếc bánh xuống bàn thì chuông cửa lại réo lên, rồi lại réo thêm lần nữa.
“Ôi, Gandalf chứ không sai” – Bilbo nghĩ khi phóng qua hành lang. Vẫn không phải! Lại hai lão lùn nữa xuất hiện, cả hai đội mũ trùm xanh nước biển, thắt lưng bạc và râu vàng. Hai lão đều mang theo một bị đồ nghề, có kèm cả xẻng. Họ cũng đều khéo léo chui tọt vào nhà khi cửa vừa hé mở - Bilbo giờ cũng chẳng buồn ngạc nhiên.
“Tôi giúp được gì đây, các bạn lùn Dwarf?” – Bilbo nói. “Kili sẵn lòng hầu ngài” – một lão lùn nói. “Fili cũng vậy”, lão thứ hai nối lời; rồi cả hai cởi mũ trùm và treo lên móc.
“Hân hạnh được phục vụ quý ngài đây và gia đình” – Bilbo đáp, lần này đã nhớ ra phép lịch sự hàng ngày.
“Tôi thấy Dwalin và Balin đã có mặt” – Fili nhận xét – “Nhập hội thôi”.
“Hội à”, gã Bilbo nghĩ, “mình không thích từ này chút nào. Ngồi một lát nào, thử cố nghĩ xem, chà, ta phải uống thêm một chút gì”. Gã thu mình trong góc nhà và làm một hớp – còn bộ tứ người lùn kia thì đang luyên thuyên hết chuyện đào mỏ, chuyện tìm vàng đến những rắc rối với bọn Goblin tàn độc, rồi những trò tởm lợm của bọn rồng, rồi những gì gì nữa mà Bilbo không hiểu. Bilbo cũng chẳng muốn hiểu; tất cả những chuyện này đều bốc mùi phiêu lưu mạo hiểm. Ring – ring – ring – ring, chuông cửa lại réo lên, kêu váng óc như thể bị một thằng nhóc hobbit kéo giật ra.
“Còn ai tới nữa đây?” - Bilbo nói, mắt hấp háy.
“Chắc khoảng bốn người nữa tới, nghe tiếng chuông thì biết” – Fili đáp – “bọn tôi còn thấy nhiều người đi phía đằng sau.”
Gã hobbit bé nhỏ tội nghiệp ngồi thụp xuống trong phòng, tay ôm đầu tự vấn – không biết đã xảy ra thứ gì đây, và rồi còn trò gì nữa? Chẳng lẽ đám người này còn ở lại đến bữa tối sao? Chuông cửa lại réo thêm lần nữa, và gã phải ra mở cửa. Không phải bốn mà là năm lão lùn xuất hiện. Một lão khác đã tới nơi trong lúc Bilbo lúng túng ở hành lang. Gã vừa mở hé cửa là cả đám đã ùa vào, rồi hàng tràng “hân hạnh”, và những lần cúi chào kiểu cách được tuôn ra. Dori, Ori, Nori, Oin và Gloin là tên của các vị khách mới. Chẳng mấy chốc, trên móc mũ xuất hiện thêm hai mũ tím, một mũ xám, một mũ nâu và một mũ trắng; còn đám người lùn xọc bàn tay to tướng của mình vào những chiếc thắt lưng vàng, tiến thẳng vào phòng ăn. Trông đã ra dáng một hội vui vẻ. Kẻ gọi bia, người khác muốn bia đen, kẻ nọ lại muốn cà phê cơ, nhưng tất cả, không loại trừ một ai, đều khoái món bánh ngọt rắc nho khô. Gã hobbit phải luôn chân luôn tay dọn bàn trong một lúc.
Và khi ấm cà phê lớn được đặt lên lò, lúc các gã lùn đã giải quyết xong món bánh ngọt và đang chuyển sang món bánh trứng với bơ thì có tiếng đập ầm ỹ. Không phải tiếng chuông, mà là một chuỗi “thình thịch” phát ra từ cánh cửa xinh đẹp màu xanh. Có kẻ nào đang đập gậy rầm rầm vào đó.
Bilbo nhào ra hành lang, vừa tức giận vừa hoang mang, mệt mỏi. Gã giật tung cánh cửa, và một bọn người ngã bổ vào trong, người nọ đè lên người kia. Lại thêm đám lùn nữa, bốn mạng! Lại còn Gandalf đang đứng tựa lên gậy chống và cười nữa kìa. Lão đã dùng gậy chọc sứt cánh cửa xinh đẹp; nhân đó, lão cũng đã xóa đi dấu hiệu được ghi lại trên cửa sáng qua.
“Cẩn thận nào, cẩn thận chút đi” – lão nói. “Trông không giống kiểu của anh tí nào, Bilbo ạ. Ai lại để khách đứng ngoài cửa, rồi lại giật cửa như súng nổ thế. Cho phép ta giới thiệu: Bilfur, Bofur, Bombur và một nhân vật đặc biệt – Thorin!”
“Hân hạnh được phục vụ ngài” – Bilfur, Bofur, Bombur đã xếp thành hàng nói. Ngay đó, họ treo lên thêm hai mũ trùm màu vàng, một mũ xanh lá cây nhạt và một mũ nửa xanh da trời với chỏm dài bằng bạc. Chiếc mũ cuối này là của Thorin, một gã lùn Dwarf quan trọng hết mực. Chẳng phải ai khác, đó chính là Thorin Khiên Sồi (chú giải: Năm 53 tuổi, tuổi thanh xuân của người Dwarf, Thorin đã tham dự vào trận đánh Naduhirion, trận chiến lớn nhất giữa người Dwarf và bọn Goblin. Khiên của Thorin vỡ tan, và lão đã dùng một thân sồi thay khiên. Lão mang biệt hiệu Khiên Sồi từ thưở đó), người hoàn toàn không hài lòng về việc phải ngã bổ chửng trên nền nhà của Bilbo, bị Bilfur, Bofur và Bombur nằm đè cả phía trên (trong số đó, cần nói rõ là gã Bombur vừa mập lại vừa to khủng khiếp). Vậy nên thoạt đầu Thorin tỏ ra khá cao ngạo và chẳng đề cập gì đến chuyện “phục vụ”. Chỉ sau khi Bilbo đáng thương của chúng ta xin lỗi tới vài lần, Thorin mới thốt ra “Bỏ qua đi!”, và thôi không cau có nữa.
“Đông đủ cả rồi nhé” - Gandalf nói, mắt nhìn theo dãy mười ba chiếc mũ trùm treo thành dãy trên tường – những chiếc mũ đẹp nhất chuyên dùng đi dự tiệc, và cả chiếc mỹ của chính lão. “Hội hè vui quá nhỉ! Hi vọng là những kẻ chậm chân cũng kiếm được chút gì lót dạ? Các vị có gì đây? Trà à? Tôi xin kiếu. Chút vang đỏ chắc hợp với tôi hơn.”
“Tôi cũng vậy” - Thorin tiếp lời.
“Cho thêm mứt dâu đất và bánh nhân táo nhé” - Bilfur nói.
“Còn tôi muốn bánh nhân thịt và ít phó mát” - Bofur bổ sung.
“Bánh rán nhân thịt lợn và rau trộn” - Bombur thêm vào.
“Ấy, nhớ lấy thêm cho bọn này bánh ngọt, bia và cà phê, nếu ông bạn còn có sẵn” - đám còn lại gào lên.
“Chiên thêm vài quả trứng nữa nhé, anh bạn tốt bụng” - Gandalf nói đuổi theo khi gã hobbit đã lê bước vào kho - “Nhớ mang thêm một con gà ướp lạnh và ít dưa chuột muối”.
“Rõ là lão thuộc kho đồ chẳng kém gì ta” - “ngài” Baggins lẩm bẩm. Gã đã hoàn toàn rối trí và bắt đầu thấy hãi, không biết đây có phải là “một cuộc phiêu lưu quỷ quái” thình lình rơi xuống đầu gã hay chăng. Khi đã gom đủ những chai đồ uống, những món đồ ăn, rồi đĩa chén, thìa dĩa, tất cả được dồn lên những khay lớn làm thành một đống lù lù khủng khiếp. Người đầm đìa mồ hôi, mặt nóng bừng, và gã thấy muốn nổi khùng.
“Cầu cho chúng mày ăn đến tắc thở, cái bọn lùn Dwarf này” - Gã nói thành tiếng - “Sao chẳng có đứa nào đến giúp đỡ một tay”.
Thử nhìn lại xem! Balin và Dwalin đã vụt xuất hiện trên cửa bếp, cứ như mọc dưới đất lên vậy, còn sau họ là Fili và Kili. Bilbo còn chưa kịp thốt ra lời, cả đám đã xúm vào mấy khay đồ, dọn lên hai chiếc bàn và khiêng tất cả vào phòng ăn nhanh như một cơn lốc.
Gandalf chọn ghế chủ tiệc, còn mười ba gã lùn Dwarf ngồi xúm xít xung quanh. Phần mình, Bilbo ngồi trên một chiếc ghế nhỏ bên lò sưởi, cố gặm một mẩu bánh mì khô (gã cũng chẳng còn lòng dạ nào mà ăn uống nữa); gã tỏ vẻ chẳng có gì quan trọng xảy ra, và dĩ nhiên là chẳng dây dính gì đến trò “phiêu lưu mạo hiểm”. Đám lùn vừa ngồi ăn, vừa trò chuyện mãi không thôi, còn thời gian thì cứ thế trôi đi. Cuối cùng, cả đám cũng rời khỏi bàn ăn. Bilbo đứng dậy, chuẩn bị thu dọn mâm bát.
“Tôi hi vọng các bạn sẽ ở lại đến bữa tối chứ?” - Bilbo hỏi bằng một giọng thoải mái và lịch thiệp nhất.
“Dĩ nhiên rồi” - Thorin đáp - “Sau bữa tối bọn ta cũng còn ở lại. Còn lâu mới bàn chuyện chính, vì còn phải hát hò chút đã. Giờ thì dọn bàn!”.
Mười hai gã lùn kia đều nhảy bật lên khỏi ghế (trừ Thorin có thân phận cao quý vẫn đang tiếp tục trò chuyện cùng Gandalf), họ xếp chồng đĩa bẩn lên nhau, mọi thứ còn lại tống đè lên trên trốc. Rồi cả đám cùng nối đuôi nhau vào bếp, trên tay mỗi gã là cả một tòa tháp đĩa ngất ngư, điểm xuyết bằng đủ loại chai lọ. Gã hobbit đáng thương lẽo đẽo theo sau, lạnh người vì sợ:
“Ôi các bạn ơi, cẩn thận chút cho. Đừng mà, cứ để tôi làm!”
Thay lời đáp, cả đám lùn cùng hát:
“Đập chén đi, nào ta đập đĩa đi
Đập mẻ dao, đập cho cùn dĩa
Gã Bilbo chắc không ưa lắm đó,
Đập sạch chai, đốt hết nút đi.
Cắt hết vải và tha hồ bôi bẩn
Đổ ngập sữa lên sàn nhà thôi
Thêm mẩu xương trên giường phòng ngủ
Tưới rượu vang lên mỗi cửa buồng.
Quẳng bình sành vào trong chậu rửa
Chọc cho lủng với gậy cời lò
Nếu bạn làm rồi, vẫn có cái nguyên
Quẳng xuống sàn lăn đâu mặc xác.
Gã Bilbo chắc không ưa lắm đó
Này, nhẹ tay với đám đĩa thôi”
Tất nhiên là bọn họ không làm theo những lời tai quái đó. Mọi thứ đều được dọn sạch và xếp đặt an toàn, nhanh như chớp, trong lúc gã hobbit đang xoay vòng trong bếp, cố dõi xem bọn họ đang diễn trò gì. Sau đó cả bọn quay về phòng ăn, nơi Thorin đang gác chân lên bệ lò và điềm nhiên hút thuốc. Lão thả ra những đám khói khổng lồ và hạ lệnh cho chúng bay khắp chỗ: cái lên ống khói lò, cái khác lên đồng hồ trên lò sưởi, rồi dưới bàn, lên sát trần, nơi chúng vẽ thành những vòng tròn khói. Nhưng dù Thorin thả khói khéo léo đến đâu, Gandalf vẫn tỏ ra thiện nghệ hơn. Pooh! Lão nhả ra một vòng khói nhỏ hơn từ chiếc tẩu đất nung, vòng khói của lão chui lần lượt qua từng vòng khói của Thorin. Sau đó vòng khói của Gandalf biến qua màu xanh, quay lại trên đầu lão và lơ lửng ở đó. Những vòng khói lão thả ra đã tụ lại thành một đám mây nhỏ. Trong ánh sáng nhập nhoạng của căn phòng, vẻ ngoài của Gandalf trông thật bí hiểm và ma quái. Bilbo ngẩn người đứng ngắm; bản thân gã cũng ưa thả khói và giờ đang đỏ mặt xấu hổ khi nghĩ lại cảnh thả khói lên Đồi bữa trước.
“Nào, giờ đến lúc khởi nhạc rồi, mang nhạc cụ lại đây!” – Thorin nói.
Kili và Fili móc ra hai cây vĩ cầm từ trong bị, Ori, Dori và Nori rút ra những cây sáo giấu đâu dưới áo khoác ngoài; Bombur tha vào một cái trống từ phòng khách; Bifur và Bofur cũng ra phòng ngoài và mang vào mấy cây đàn clarinet vẫn để lẫn trong đống gậy đi đường. Dwalin và Balin thì đồng thanh nói: “Xin lỗi, bọn tôi để đồ ở ngoài hiên!”
“Mang luôn đồ của ta vào nhé!” – Thorin nhắc.
Hai gã lùn mang theo vào những cây viola cao bằng người cùng cây đàn hạc của Thorin được bọc trong tấm vải xanh: cây đàn hạc làm toàn bằng vàng và tuyệt đẹp. Và khi Thorin vuốt lên dây đàn, cả bọn cùng bắt đầu chơi; một thứ âm nhạc lạ thường, ngọt ngào và đầy giai điệu tuôn chảy. Bilbo lãng quên mọi sự, thả hồn mình đến những bến bờ xa, mãi đâu Phía Bên Kia Sông, xa tít khỏi cái lỗ hobbit phía Dưới Đồi, nơi mặt trăng trên bầu trời kỳ lạ như một vì tinh tú khác. Qua ô cửa sổ hướng ra Đồi, bóng tối đã len vào phòng, lửa trong lò (vẫn đang tiết tháng tư) đã bắt đầu lụi mà đám lùn Dwarf vẫn chơi, chơi mãi, trong khi bóng bộ râu của Gandalf nhảy múa trên tường.
Bóng đêm đã tràn ngập căn phòng, lửa đã tắt và những hình người cũng không còn trông rõ, nhưng đám lùn vẫn tiếp tục chơi. Đột ngột một gã, rồi tiếp sau là gã thứ hai cùng cất lên bài hát sâu lắng của người Dwarf, bài hát xưa đã từng vang lên trong những ngôi nhà cổ kính tại những vùng đất sâu thẳm của họ. Hãy lắng nghe một đoạn của bài hát đó, nếu những lời thơ không có nhạc có thể coi là bài hát:
Sau dãy núi xa mịt mờ kia
Dưới đáy sâu những hang động cổ
Trước bình minh chúng ta gắng sức
Tìm cho ra kho báu người xưa.
Những người lùn thời xưa huyền thoại
Nghề rèn tinh xảo nhất trần gian;
Nào ngọc thạch, ngọc lam, ngọc bích
Chúng ta cùng nhau cất giữ thôi.
Cho đức vua, cho chúa người Elf
Đập búa mau lên nào bạn hỡi
Cho ánh dương giúp ta soi tỏ
Tỏa hào quang trên chuôi kiếm mới rèn.
Trên hộ tâm bạc họ đang đeo
Trên vương miện vì sao tỏa sáng,
Trên xích vàng đang mang quanh cổ
Nhật nguyệt cùng lấp lánh sáng ngời.
Cúp kia ta tạc cho vui thú.
Đàn hạc vàng ròng có ai hay
Tất thẩy nằm đây cùng tắt tiếng
Nào ai nghe thấu tiếng cầm ca.
Thông mọc vút cao, gió thét gào
Lửa bùng đỏ, cây như đuốc sáng
Chuông đổ dồn trên khắp xứ Dale
Người người dậy, mặt kinh hoàng hãi sợ
Cơn giận rồng thiêng hung tợn vô ngần
Tháp canh sụp, và nhà nhà bùng cháy
Núi cao kia ngập khói dưới ánh trăng.
Người dwarf nghe tiếng gọi của Tử Thần
Lao ra cửa và sa chân nơi tử địa.
Dưới móng Rồng,
Dưới ánh trăng khuya.
Sau dãy núi xa mịt mờ kia
Dưới đáy sâu những hang động cổ
Trước bình minh chúng ta gắng sức
Đoạt cho được kho báu của tiền nhân.
Nghe bài hát của những người lùn dwarf, gã hobbit nhận thấy một tình yêu vừa nảy mầm trong gã, tình yêu đối với những đồ vật thần kỳ, được chế tạo bởi phép thuật và những bàn tay khéo léo; một tình yêu ích kỉ và đầy ghen tuông, thứ ham muốn mãnh liệt vẫn sống trong tim mỗi người lùn Dwarf. Gã cũng cảm thấy một ham muốn xa lạ đang thức dậy, ham muốn được đi và thấy những rặng núi mờ xa, được nghe rừng thông xào xạc, nghe thác đổ; được khám phá những hang động sâu thẳm, được đeo kiếm thay vì mang gậy chống.
Gã nhìn qua ô cửa. Bầu trời đen thẫm, những vì sao đang lấp lánh bên trên những hàng cây. Gã nghĩ về kho báu của những người lùn, cũng đang lấp lánh dưới những hang ngầm. Thình lình gã thấy một ánh lửa vụt sáng phía sau đồi (có lẽ ai đó vừa nhóm củi), Bilbo như nhìn thấy những con rồng kẻ cướp đang sà xuống ngọn Đồi thầm lặng của gã và tắm tất cả trong biển lửa. Gã rùng mình và nhanh chóng trở lại thành ngài Baggins cứ BagEnds, Phía Dưới Đồi.
Gã đứng dậy, toàn thân run rẩy. Gã lưỡng lự: mình nên đi lấy thêm cây đèn, hay giả bộ đi lấy rồi trốn chui đâu đó dưới đống thùng bia trong nhà hầm, cho tới khi đám lùn rời khỏi. Nhưng ngay đó, gã nhận ra rằng lời ca và âm nhạc cũng đã tắt, tất cả các lão lùn đều nhìn gã chằm chằm, mắt của chúng sáng lên trong bóng tối.
“Anh bạn muốn đi đâu vậy?” – Thorin gọi hắn. Giọng lão cho thấy, lão đã đoán ra mọi suy tính của Bilbo.
“Tôi mang đèn lên được không?” – Bilbo rụt rè hỏi.
“Bọn ta ưa bóng tối này hơn” – cả đám lùn đồng thanh đáp – “những việc đen tối cần thực hiện trong bóng tối! Còn lâu trời mới rạng.”
“À vâng, vâng, dĩ nhiên là vậy” – Bilbo nói và vội vã ngồi xuống. Gã ngồi hụt ghế và đâm thẳng vào tấm chắn lò, hất tung cả thanh cời than lẫn xẻng.
“Suỵt” – Gandalf nói – “nghe Thorin nói nào!”
Thorin đã bắt đầu:
“Ngài Gandalf, các bạn lùn dwarf và ông bạn Baggins! Chúng ta đã tới đây, trong nhà của bạn chúng ta, người đồng sự, người bạn Hobbit tuyệt vời và táo tợn - cầu trời cho lông đừng bao giờ rụng khỏi bàn chân bạn! Cầu cho rượu bia của bạn mãi say nồng!”
Lão dừng lời, cho phép gã hobbit tội nghiệp cơ hội được hồi đáp theo lễ nghi, nhưng ông bạn Bilbo Baggins đáng thương không coi những lời trên như lời khen tụng. Gã nhắp môi, định phản bác lại câu “người hobbit táo tợn”, và còn quá thế nữa, “người đồng sự”, nhưng ruột gan cồn cào đến không nói nổi lên lời. Bởi vậy, Thorin lại tiếp tục:
“Chúng ta tụ họp tại đây để bàn tính các kế hoạch của chúng ta, các phương thức và phương tiện hiện có, các mưu kế và hành động. Chỉ chút nữa thôi, ngay trước khi trời sáng, chúng ta sẽ khởi hành một chuyến đi xa, một chuyến viễn du mà một vài kẻ trong bọn ta, có khi là tất cả (dĩ nhiên là trừ người bạn, quân sư của chúng ta, pháp sư mưu trí Gandalf) đều không thấy ngày về. Đây là giây phút trọng đại. Mục tiêu của chúng ta, như tôi nghĩ, mọi người đều rõ cả. Riêng với ngài Baggins, và có lẽ cả một số anh em trẻ người Dwarf (tôi nghĩ đó là Kili và Fili), một đôi lời giải thích cũng là thỏa đáng”.
Phong cách của Thorin là vậy. Lão là một nhân vật quan trọng. Nếu không kịp thời ngăn lão, lão có thể tiếp tục giọng đó cho tới khi đứt hơi mà chẳng thông báo được điều gì mới mẻ. Nhưng lão đã bị ngắt lời hết sức thô bạo. Bilbo không thể chịu đựng thêm. Khi nghe tới đoạn “không thấy ngày về”, gã Bilbo đáng thương cảm thấy một tiếng thét đã lấp đầy cổ họng, và tiếng thét đó cuối cùng đã buột ra – một tiếng rít chói tai như còi tàu hỏa trước khi ra khỏi đường hầm. Cả đám lùn đều nhảy dựng, lật đổ cả bàn ăn. Một ngọn lửa xanh bùng cháy trên đầu cây gậy thần của Gandalf, và trong ánh sáng chập chờn, mọi người thấy gã hobbit đang quỳ trước lò sưởi, toàn thân run như dẽ. Bỗng nhiên gã ngã xấp xuống sàn, miệng gào điên loạn: “Sét đánh tôi rồi, sét đánh chết tôi!”; và rồi cả đám chẳng moi được thêm lời nào từ gã. Đám lùn khiêng gã đặt lên ghế dài ngoài phòng khách, để chút đồ uống trong tầm với và quay lại với những công việc “đen tối” của mình.
“Ông bạn này dễ phấn khích quá” – Gandalf nói khi ai đã vào chỗ nấy. “Thỉnh thoảng có những cử chỉ kì quặc, nhưng hắn là một trong những kẻ xuất sắc nhất đấy – hung dữ y như rồng bị chẹt đuôi”.
Nếu bạn đã có dịp thấy rồng bị chẹt đuôi, bạn sẽ hiểu ngay đây rõ là phép phóng đại thôi. Thậm chí phóng đại quá lố so với bất kì dân hobbit nào, kể cả với người anh họ cố nội Già Took với biệt danh Bò Rống, người khổng lồ trong số hobbit, người đã từng cưỡi ngựa. Chính Bò Rống là người đã lao như cơn lốc vào giữa hàng quân bọn quỷ goblin núi Gram trong trận chiến chiếm những Cánh Đồng Xanh, và chỉ bằng một chùy đập đã đánh bay đầu vua Gol-firnburn của chúng. Cái đầu đã bay xa hơn trăm thước, rơi thẳng vào một hang thỏ, kết thúc trận chiến vĩ đại; còn trò chơi golf cũng được sáng tạo ra vào đúng khoảnh khắc lịch sử này.
Lúc này hậu duệ yếu mềm của Bò Rống đã tỉnh giấc bên phòng khách. Nằm nghỉ một lát và nhấp giọng bằng một ngụm vang, gã lần đến bên cửa vào phòng ăn. Gloin đang nói, và đây là những lời Bilbo nghe được:
“Xì (hay một âm sắc nào cũng khinh bỉ như vậy), các bạn nghĩ gã này phù hợp ư? Gandalf đã mô tả rất hay về tính hung bạo của hắn, nhưng chỉ một tiếng thét kiểu đó, vào lúc không thích hợp, cũng đủ đánh thức cả họ nhà rồng. Khi đó sẽ có khối kẻ trong bọn ta toi mạng! Tớ thì thấy rõ! Hắn hét lên vì hãi quá, chứ đâu phải vì phấn khích! Thật lòng, nếu không thấy dấu hiệu ma thuật trên cửa, tớ nghĩ tụi ta đã lầm đường. Ngay khi nhìn thấy nhóc tì này nhẩy tới nhẩy lui trên thảm, tớ đã nghi nghi. Trông gã giống lão bán đồ tạp hóa hơn là “người bẻ khóa”.
Khi đó Bilbo đẩy nắm cửa và bước vào. Dòng máu Took đã chiến thắng. Hắn cảm thấy sẵn sàng bỏ luôn bữa sáng cùng giường êm nệm ấm, miễn những kẻ này phải thấy hắn thật hung tợn. Quả thật, hắn muốn phát điên khi nghe tới câu “nhóc tì nhẩy tới nhẩy lui trên thảm”.
Sau này, trong biết bao lần, dòng máu Baggins trong hắn đã cay đắng hối hận về hành động bất cẩn của mình: “Bilbo, thằng ngu nhất trần đời, sao mày lại tự mình chấp thuận dính vào mớ bòng bong ấy”.
“Xin lỗi, tôi đã tình cờ nghe được chuyện của các ngài” – gã nói – “Tôi sẽ không làm bộ như mình hiểu những chuyện vừa nghe; đặc biệt tôi không hiểu nổi chuyện “bẻ khóa” ở đây. Nhưng tôi nghĩ, tôi đã nhận thức ra một điều (gã vẫn coi đây là biểu hiện của “cư xử đúng mực”): các ngài coi tôi là thứ bỏ đi. Được thôi, tôi sẽ chứng minh tôi làm được những gì. Chẳng có dấu hiệu ma thuật nào trên cửa nhà tôi hết, tôi mới cho sơn cửa hôm tuần trước, và có lẽ các ngài đã nhầm địa chỉ. Ngay khi nhìn thấy bộ dạng khó ưa của quý ngài đây, tôi đã nghĩ các ngài nhầm địa chỉ. Nhưng hãy cho là các ngài đến đúng nơi đi. Nói đi, xem cần làm gì, và tôi sẽ hoàn tất, dù có phải đi tới Viễn Đông, hay đấu với loài độc trùng của Sa Mạc Cuối Cùng. Bên ngoại tôi có ông tiền tổ với biệt hiệu Bò Rống...”
“Phải, phải rồi, nhưng đó là chuyện thời xưa” – Gloin ngắt lời gã – “còn tôi đang nói về chính Ngài đây. Và tôi đoan chắc với ngài, trên cửa nhà ngài có dấu hiệu ma thuật, chính dấu hiệu như người xưa vẫn dùng. Nó cho biết nghề nghiệp của ngài. Diễn dịch ra, dấu hiệu đó có nghĩa là: ‘Dân bẻ khóa chuyên nghiệp, sẵn sàng nhận việc, chấp nhận nguy hiểm, miễn thù lao đầy đủ’. Ngài có thể tự gọi mình là ‘người kiếm tìm kho báu bậc cao’ nếu ngài không ưa từ ‘bẻ khóa’. Vài kẻ tự gọi mình như vậy. Bọn tôi không quan trọng chuyện đó. Gandalf thông báo với bọn tôi là một chuyên gia địa phương đang cần việc gấp và hẹn gặp tại đây vào thứ tư, lúc năm giờ”.
“Về dấu hiệu ma thuật, chính ta đã khắc lên trên cửa” – Gandalf xen vào – “Và ta có lý do xác đáng. Các người đã nhờ ta tìm ra người-thứ-mười-bốn, và ta đã chọn ông Baggins. Kẻ nào dám nói ta lầm, chọn người không đúng, hay đến sai địa chỉ xem, hãy xéo đi ngay với mười ba mạng và vận đen đeo đuổi. Nếu vậy vẫn không ưng, thì xéo về hết, về đào than trong mỏ đi!”
Lão nhìn Gloin giận dữ đến mức gã lùn dwarf phải co rúm người trong ghế. Phần Bilbo cũng tính mở miệng, chuẩn bị hỏi thêm đôi điều, nhưng Gandalf đã quay phắt lại và nhìn hắn hung dữ dưới chòm lông mày bạc. Bilbo đành ngậm miệng.
“Thôi, tranh cãi đủ rồi” - Gandalf nói - “Ta đã chọn ông Baggins, các người phải chấp thuận như vậy. Nếu ta nói hắn là Người Bẻ Khóa, điều đó có nghĩa, hắn là người bẻ khóa, hoặc sẽ mở khóa vào lúc thích hợp. Hắn không ngây thơ như các người nghĩ, không ngây thơ như chính hắn cũng lầm tưởng về mình. Sẽ tới giờ khắc mà các người (nếu các người còn sống sót) sẽ phải cảm ơn ta về hắn. Còn bây giờ Bilbo, cậu nhỏ của ta, mang đèn lại đây, bọn ta cần xem vật này”.
Trên bàn, dưới cây đèn lớn với chụp đèn màu đỏ, lão trải rộng một mảnh giấy da, trông hệt như tấm bản đồ.
“Đó là tác phẩm của Thror, ông nội của anh, Thorin” - lão đáp lại những câu hỏi chực buột ra của đám lùn. “Bản đồ vùng Núi Lớn đây”.
“Tôi không thấy nó giúp được gì nhiều” - Thorin đáp lại sau khi xem chăm chú - “Tôi nhớ rõ vùng Núi Lớn và phụ cận. Tôi biết đâu là Rừng Tối, còn đâu là Khu Hoang Địa, nơi bọn rồng cư ngụ”.
“Trên bản đồ cũng vẽ cả con Rồng” - Balin thêm vào - “Nếu có khi nào ta tới được Núi Lớn, không có bản đồ chúng ta cũng nhìn thấy nó”.
“Có một chi tiết các người không nhận ra” - Pháp sư phản bác - “một lối đi bí mật. Các vị có thấy dòng chữ rune phía Tây này không, và bàn tay chỉ hướng từ những dòng chữ rune khác? Nó đánh dấu lối đi bí mật vào Hạ Phòng”.
“Có thời nó đã là bí mật” - Thorin ngẫm nghĩ - “nhưng chắc gì nó còn bí mật tới ngày nay. Smaug đã sống ở đó quá lâu để biết mọi ngõ ngách của những hang động này”.
“Nó có thể tìm ra, nhưng cũng chẳng ích gì”.
“Tại sao chứ?”
“Vì lối đi quá nhỏ. Cao năm bộ và ba người cùng đi lọt – những chữ rune này nói vậy. Smaug không thể chui lọt qua khe ngay khi còn trẻ, huống gì tới khi này, khi nó đã ăn vô số người dwarf và thường dân xứ Dale”.
“Còn theo ý tôi thì cửa lớn quá đấy” - Bilbo đột ngột lên tiếng. Gã chưa khi nào có dịp đụng chạm với loài Rồng, còn về “lỗ”, gã vốn chỉ quen với “lỗ” của nhà hobbit. Lại một lần nữa gã nóng đầu và bị câu chuyện lôi cuốn, quên mất là với gã, im lặng quý hơn vàng. Gã sùng bái mọi loại bản đồ, ngay trong phòng ngoài gã có treo một bản đồ vùng Đồi và phụ cận, nơi gã cẩn thận đánh dấu mọi con đường đi dạo của mình bằng chì đỏ.
“Tôi không rõ vì sao họ lại giấu được khuất mắt những người khác, cho dù con Rồng có thể không nhận ra?” – Bilbo hỏi (bạn đừng quên gã chỉ là một chàng Hobbit bé nhỏ mà thôi).
“Có nhiều cách khác nhau” – Gandalf đáp. “Nhưng họ đã che giấu chính cái cửa này ra sao, hiện ta còn chưa rõ. Từ những hướng dẫn trên bản đồ này, ta chỉ biết cửa được khóa và đúc liền vào núi. Một mánh quen thuộc của người dwarf, nếu ta không nhầm?”
“Ngài không nhầm đâu” – Thorin khẳng định.
“Phải, ta quên chưa nhắc tới chiếc chìa khóa này” – Gandalf tiếp lời. “Nó được đính kèm cùng bản đồ. Nó đây!”. Và Gandalf chìa ra cho Thorin một chiếc chìa khóa bạc có cán dài, với đầu khóa trông thật ngộ. “Giữ cẩn thận nhé!”.
“Ai mà dám ẩu” – Thorin nói và đeo ngay chìa khóa vào chiếc dây vàng dài sọc trên cổ, chiếc dây dài, luồn xuống dưới áo khoác.
“Giờ tình thế đã không đến nỗi vô vọng như trước. Mới đây bọn tôi vẫn chưa rõ sẽ khởi sự từ đâu. Bọn tôi đã định tiến về phía Đông, cố gắng cẩn trọng và căng mắt quan sát, miễn sao tiến được tới Hồ Lớn. Khi đó chắc mọi khó khăn sẽ bắt đầu...”
“Không phải khi đó, mà sớm hơn nhiều; ai chứ ta thì biết rõ đường sang phía Đông đấy” – Gandalf ngắt lời.
“Từ đó chúng ta sẽ tiến lên miền trên dọc theo Dòng Sông Chảy Xiết” – Thorin tiếp tục, bỏ qua lời cảnh báo của Gandalf. “Cố tìm tới khu phế tích của Dale – thành phố cổ nằm trên bờ sông dưới chân Núi Lớn. Thật ra chẳng ai trong bọn tôi dám vào lối Cổng Chính. Dòng sông chảy ngay chỗ cổng chính này rồi ngoặt qua mỏm đá lớn phía Nam; con Rồng thường bay ra theo lối này, quá thường, nếu nó không thay đổi thói quen.”
“Đúng, lối đó không vào được” – pháp sư công nhận. “Nhất là khi không có sự trợ giúp của một chiến binh lừng danh, hay một lực sĩ huyền thoại. Ta đã cố thử kiếm một người, nhưng trong thân thể những chiến binh ngày nay không còn chảy dòng máu phiêu lưu ấy, họ chỉ khoái đánh lẫn nhau ở các miền đất xa. Còn lực sĩ ư, một, hai, hết rồi đấy. Gươm thì cùn, rìu chiến dùng đốn củi, khiên dùng thay vung úp nồi; còn bọn rồng lại hân hạnh được liệt vào hàng cổ tích. Bởi vậy ta đã tính tới chuyện đột nhập, nhất là khi biết được Lối Đi Bí Mật. Chính lúc này ông bạn Bilbo Baggins xuất hiện, một chuyên gia bẻ khóa trời cho. Nào, quay lại với kế hoạch và chúng ta bàn tiếp”.
“Tuyệt lắm” – Thorin nói – “Có lẽ để ông bạn bẻ khóa giàu kinh nghiệm của chúng ta sẽ nói lên vài ý tưởng độc đáo và sáng giá?”. Lão cúi mình mời Bilbo với vẻ lịch sự cường điệu thấy rõ.
“Trước tiên tôi muốn biết rõ công việc hơn” – gã hobbit nói (trong đầu gã mọi thứ lộn tùng phèo, bụng gã lạnh ngắt, nhưng gã quyết không lùi bước, đó là dòng máu Took). “Có nghĩa là tôi muốn biết rõ hơn về vàng, châu báu, về con Rồng, sao vàng lại nằm chỗ đó, nó là của ai, và các thứ khác nữa”.
“Trời ơi” – Thorin nói – “Không lẽ ông bạn chưa xem bản đồ? Không nghe bài hát của người lùn dwarf? Không phải chúng ta đã bàn về vụ này suốt ngần đấy thời gian?”
“Dẫu sao tôi cũng muốn nghe lại thật-chi-tiết và có-trình-tự”- Bilbo vẫn ngoan cố, đồng thời gã cố ra dáng “làm ăn” (dáng điệu hắn vẫn dùng với những kẻ đến vay tiền). Cố hết sức, gã muốn mình trông giống một chuyên gia kĩ tính, chu đáo thông minh và thạo việc để có thể tương xứng với lời giới thiệu của Gandalf. “Tôi cũng muốn nghe về mức độ mạo hiểm, về các chi phí không lường trước, về thời hạn, tôi cũng cần biết rõ mức thưởng và các chi tiết khác.”
Thực ra những lời trên chỉ có ý nghĩa – “ta sẽ được gì đây? Và liệu ta có còn thấy ngày về?”
“Hay lắm” – Thorin nói. “Đã lâu lắm rồi, từ thời ông nội Thror của ta, cả gia đình ta đã bị xua đuổi khỏi vùng cực Bắc, và cùng với gia sản, đồ lề, chúng ta đã di trú tới ngọn Núi Lớn trên bản đồ này. Ông tổ Thrain Lão Trượng đã khám phá ra nó từ lâu, nhưng chỉ tới lúc này bọn ta mới khai mỏ mở đường, xây nhà lập xưởng trong lòng Núi. Ta nghĩ họ tìm ra vô số vàng và châu báu vào khi đó. Dẫu sao thì họ cũng trở nên giàu có vô ngần, và ông nội ta đã trở thành Vua của Xứ sở Ngầm Trong Núi, được những Con Người hết sức nể vì. Những người này vốn sống phía Nam, nhưng dần dà, họ đã tiến ngược lên theo Dòng Sông Chảy Xiết, tới tận thung lũng dưới chân Núi Lớn. Họ đã xây dựng nên thành Dale phồn vinh. Những vị vua xứ Dale luôn cầu tới thợ rèn của bọn ta, và ngay những kẻ non nghề nhất cũng được trả công hậu hĩnh. Những ông chủ gia đình luôn cầu xin để con họ được học nghề, sẵn sàng chi hậu, nhất là bằng cách khoản lương thực, nên người dwarf cũng chẳng phải lo tới chuyện cày cấy hay gặt hái. Ngẫm lại, đó thực là những ngày hạnh phúc, ngay người dwarf nghèo nhất cũng thừa tiền để tiêu xài hay cho vay mượn; và anh ta cũng thảnh thơi để chế ra những món đồ chơi đẹp đẽ cho vui, chơi nói gì tới món đồ ma thuật diệu huyền, những thứ hôm nay đốt đuốc tìm cũng không thấy nữa. Cung điện của ông nội ta đầy ắp giáp trụ và trang sức, cúp vàng và đồ chạm, còn chợ phiên xứ Dale được coi như kì quan phương Bắc vào thưở ấy”.
“Chao ôi, nhưng chính sự thịnh vượng ấy đã thu hút bọn Rồng tới chốn này. Bọn Rồng luôn chăm chăm đánh cắp vàng và châu báu, anh bạn biết đấy, của người dwarf, người Elf, của con người mỗi khi có dịp; và chúng hằn học canh giữ kho báu tới cuối đời (có nghĩa là mãi mãi, trừ khi chúng bị hạ sát), dù chẳng khi nào dùng tới ngay chiếc nhẫn đồng tầm thường nhất. Thực ra thì chúng đâu phân biệt nổi đồ tốt hay đồ xấu, nhưng chúng luôn chắc giá của món đồ; tự thân chúng không thể hàn lại ngay một chiếc vảy rồng bị sứt. Có khá nhiều Rồng trên phương Bắc vào thời đó, còn nguồn vàng thì cạn kiệt dần: những người dwarf đã dời xuống phía Nam hay bị giết hại, khung cảnh điêu tàn, hoang phế do bọn Rồng gây ra trông ngày càng tệ hại. Trong số đó có một con tham lam, mạnh mẽ và nham hiểm nhất – con Smaug. Một ngày kia, nó tung cánh và bay xuôi xuống phía Nam. Bọn ta thoạt đầu chỉ nghe những âm thanh như tiếng bão tràn tới từ phương Bắc, rồi những cây thông trên Núi ngả nghiêng đổ gãy. Vài người dwarf đang ở ngoài trời (ta là một trong số những người may mắn đó, vốn là một kẻ phiêu lưu, luôn lang thang khắp chốn, và điều đó đã cứu mạng cho ta), phải, đứng khá xa ta thấy con Rồng sà xuống núi trong lửa đỏ. Nó trườn xuống lũng và cả đám cây bốc cháy khi nó chạm vào. Tất cả chuông xứ Dale đổ dồn vội vã trong lúc đó, còn các chiến binh nhanh chóng vũ trang. Người dwarf lao ra khỏi cổng thành, nhưng con Rồng đã chờ sẵn họ nơi đó. Không một ai thoát hiểm. Dòng sông bốc hơi mù mịt. Khói trùm lên thành phố Dale. Trong sương khói mịt mờ, con Rồng đã lao bổ vào các chiến binh và tiêu diệt họ - một câu chuyện đáng buồn, nhưng thường gặp trên phương Bắc những ngày này. Sau đó nó quay lại nơi Cửa Trước và bắt đầu quét sạch các sảnh đường hay ngõ phố, đường hầm hay cung điện, nhà dân hay lối đi. Khi không còn một người dwarf nào sống sót, nó chiếm giữ toàn bộ của cải của họ. Có lẽ, đó là thói quen của bọn Rồng, nó thu gom vàng bạc châu báu lại và ngủ luôn trên đó. Sau này, nó vẫn thường trườn xuống xứ Dale lúc ban đêm để bắt người, nhất là những thiếu nữ về ăn thịt, cho tới khi xứ Dale bị hủy diệt hoàn toàn, người trốn chạy, kẻ bị giết hại. Ta không rõ liệu chuyện gì đang diễn ra nơi Núi Lớn lúc này, nhưng ta nghĩ chắc chẳng ai dám sống gần chân núi, họa may mãi phía bờ xa của Hồ Lớn mới có người cư ngụ”.
“Vài người may mắn trong bọn ta đang ở ngoài trời, nép mình trong nơi ẩn náu, bọn ta nguyền rủa con quái vật Smaug. Thình lình ông nội và cha ta xuất hiện với những bộ râu cháy xém. Trông họ thật căm hờn, nhưng họ không nói gì nhiều. Khi ta hỏi họ thoát ra bằng cách nào, họ bảo ta câm miệng, ta sẽ được biết mọi chuyện vào một ngày kia. Sau đó chúng ta lên đường, chúng ta đã lang thang khắp chốn, thậm chí phải hạ mình đi làm thợ rèn hay đào than trong mỏ. Nhưng bọn ta không khi nào quên kho báu bị đánh cướp của mình. Và tới hôm nay, khi ta cho rằng cuộc sống đã khá hơn nhiều” – Thorin khẽ chạm vào sợi dây chuyền vàng trên cổ - “bọn ta vẫn muốn đoạt lại kho báu và trả thù tàn khốc con quái vật Smaug – nếu ta đủ sức”.
“Ta vẫn thường đau đầu nghĩ, sao cha và ông ta lại thoát được khỏi Smaug? Giờ ta hiểu, họ đã dùng lối đi dự phòng. Rõ ràng chính cha ông ta đã vẽ nên bản đồ này, và ta muốn biết: sao nó lại lọt vào tay của pháp sư Gandalf? Sao nó không thuộc về ta, người kế thừa hợp pháp?”
“Ta không chiếm đoạt, người ta đã trao nó cho ta” – pháp sư đáp.
“Ông Thror của anh đã bị giết trong vùng mỏ Moria, dưới tay vua Azog của bọn goblin...”
“Cầu trời thiêu chết hắn đi”, Thorin nói.
“Còn Thrain, cha anh đã rời nhà đi nhằm ngày 21 tháng 4, đến thứ năm tuần trước được chẵn 100 năm, và anh đã không gặp ông ta từ hồi đó..”
“Phải, phải...”
“Vậy đấy, cha anh đã giao bản đồ cho ta, để ta chuyển lại cho anh; còn về thời gian và địa điểm ta chọn để chuyển nó lại cho anh, anh cũng chẳng trách ta được, ta tốn khá thời gian để tìm ra anh đấy. Cha anh thậm chí chẳng nhớ nổi tên mình khi ta gặp ổng, nói gì đến tên anh. Vậy hãy biết ơn ta! Còn đây, bản đồ của anh.”- và pháp sư chìa mẩu giấy cho Thorin.
“Dẫu sao tôi vẫn chẳng hiểu gì” – Thorin nói, và Bilbo cũng vậy, gã thấy lời giải đáp còn tù mù quá.
“Ông của anh” – pháp sư nói chậm và u ám – “đã giao bản đồ cho con trai trước khi ông ta tới vùng mỏ Moria. Cha anh đã tính thử thời vận với tấm bản đồ này sau khi ông anh bị giết; cha anh đã phải nếm trải biết bao tai ương, nhưng cuối cùng ông ta vẫn không đến được chân Núi Lớn. Khi ta gặp ông, ông đang là tù nhân trong ngục của Necromancer (chú giải: Đại pháp sư Hắc Ám chuyên thuật gọi hồn. Ngay Gandalf cũng chưa rõ chân tướng của hắn). Làm sao ông ta lại rơi vào đó, chính ta cũng không rõ.”
“Vậy còn ngài làm gì ở đó?” – Thorin hỏi và tự nhiên rùng mình, tất cả đám lùn đều rùng mình.
“Chuyện đó không quan trọng. Ta bận chút chuyện này chuyện khác, như mọi khi thôi, nhưng lần đó quả đầy nguy hiểm. Ngay chính ta, Gandalf, cũng chỉ thoát được trong gang tấc. Ta đã cố cứu cha anh, nhưng quá muộn. Ông ta đã phát điên, chỉ còn biết lảm nhảm. Tất cả những gì ông ta còn nhớ là bản đồ và chiếc chìa khóa này.”
“Dân dwarf đã xử xong bọn goblin vùng Moria, đã đến lúc xét tới Necromancer!” – Thorin nói.
“Đừng nói chuyện tầm phào. Kẻ thù đó quá mạnh, ngay cả khi tất cả người dwarf có thể tụ hội lại cùng nhau từ bốn bể. Cha anh chỉ muốn một điều: con trai mình đọc được bản đồ và dùng chìa khóa đúng chỗ. Núi Lớn và con Rồng – từng đó đã quá sức anh rồi”.
“Thấy chưa, thấy chưa” – Bilbo lẩm bẩm, rồi đột nhiên gã nói to thành tiếng.
“Thấy cái gì?” – tất cả đám lùn cùng quay lại phía gã. Phần gã, không làm chủ được mình, đã thét lên: “Hãy nghe tôi nói gì đây!”
“Nói gì nào?”
“Vâng, tôi nói chúng ta cần tiến về phía Đông và mọi chuyện sẽ ra tấm ra món tại đó. Dẫu sao cũng còn lối đi bí mật, và bọn rồng cũng phải ngủ đôi chút chứ, ấy là tôi nghĩ vậy. Nếu anh ngồi bên bậu cửa lâu lâu, chắc chắn anh sẽ nghĩ ra được vài mẹo nhỏ. Này, các bạn thấy không, trò chuyện hôm nay quá đủ rồi, đúng vậy chứ? Đi ngủ thôi, mai dậy sớm, tôi sẽ thết các bạn một bữa sáng ngon lành trước lúc khởi hành.”
“Trước khi chúng ta cùng đi, anh muốn nói vậy chứ” – Thorin nói. “Không phải anh là Người Bẻ Khóa sao? Và ngồi trên bậu cửa không phải việc của anh, mà tìm cách lọt vào trong hang kìa. Nhưng ta đồng ý về chuyện nghỉ ngơi và bữa sáng. Ta ưa dùng trứng với thịt hun khói trước các chuyến đi xa. Không phải trứng om mà trứng chiên kĩ. Nhớ đừng làm bể trứng”.
Cả đám lùn đồng thanh đặt món của mình cho bữa sáng, không buồn cám ơn Bilbo lấy một câu (điều này làm Bilbo rất khó chịu), rồi cả bọn đứng lên. Gã hobbit phải tìm phòng cho cả bọn, trải đệm ghế và xô pha cho mọi phòng cho tới khi đám lùn nằm đâu vào đấy. Rồi mệt nhoài và hoàn toàn bất hạnh, gã lê đến chiếc giường nhỏ của mình. Có điều gã tự đoan chắc với mình là gã sẽ chẳng mò dậy sớm và làm bữa sáng cho bọn người kia. Dòng máu Took đã nguội dần, và gã chẳng hề nghĩ mình sẽ tham dự chuyến du hành vào buổi sớm. Nằm trong giường, gã còn nghe Thorin lẩm bẩm trên chiếc giường ngủ tốt nhất kế bên:
“Sau dãy núi xa mịt mờ kia
Dưới đáy sâu những hang động cổ
Trước bình minh chúng ta gắng sức
Đoạt lại vàng đã mất của tiền nhân”.
Bilbo thiếp đi với những lời đó bên tai, và mơ những giấc mơ khủng khiếp. Khi gã tỉnh giấc, trời đã sáng từ lâu.
Hết Chương 1
Quay trở về truyện Người Hobbit
Thông tin bài viết
- Bản gốc: "The Hobbit" của J.R.R. Tolkien
- Dịch giả : Nguyễn Nam
- Người đánh máy: Nomurasan
- Ngày đưa lên: 11-4-2014
- Lưu ý: Xin vui lòng không edit trang này. Nếu bạn đăng lại bài viết, đề nghị ghi tên dịch giả và dẫn link nguồn