J.R.R.Tolkien Legendarium Wiki
Advertisement
Jenny Dolfen - Earendil the Mariner

Eärendil Thủy thủ, một Peredhil (á tiên), là nhân vật quan trọng trong truyền thuyết về Kỷ Đệ Nhất. Chàng mang trong mình dòng máu của cả ba gia tộc của người Edain và là người đầu tiên đến được Aman trong Kỷ Đệ Nhất. Chàng đóng vai trò then chốt trong Cuộc chiến Thịnh nộ và đồng thời là tổ phụ của các Vua Númenor.

Eärendil là cha của Elros, vua đầu tiên của Númenor và Elrond, lãnh chúa xứ Rivendell.

Tiểu sử[]

Eärendil là đứa con lai của Tuor và công chúa Idril con gái vua Turgon. Chàng sinh ra vào năm 503 Kỷ Đệ Nhất và lớn lên ở Gondolin. Vào năm Eärendil bảy tuổi, khi thành Gondolin sụp đổ, cậu may mắn thoát khỏi bàn tay của Maeglin. Cậu bé được gia thần của Idril là Hendor cõng chạy đến Arvernien tại cửa sông Sirion. Những người sống sót ở Gondolin và Doriath cũng đến định cư tại đây. Eärendil sau đó trở thành thủ lĩnh của những người ở Arvernien. Vào năm 530, chàng cưới Elwing con gái vua Dior. Hai năm sau, họ sinh được hai người con là Elros và Elrond. Với sự giúp đỡ của Círdan, Eärendil đóng con tàu Vingilótë và bắt đầu cuộc hành trình tìm kiếm cha mẹ mình - những người vốn đã vượt đại dương trước đó. Lúc này ở nhà, Elwing đang giữ viên Silmaril mà Beren đã đoạt được từ Morgoth. Điều này đến tai những người con của Fëanor và họ tấn công, tàn sát gần như toàn bộ những người ở Arvernien. Elwing không muốn rơi vào tay họ nên đã mang theo viên Silmaril gieo mình xuống biển.

Earendil and elwing by steamey-d8a03cv

Eärendil gặp lại Elwing, tranh của steamey

Sau khi nghe về bi kịch tại Arvernien, Eärendil đã tìm đến Valinor, và chàng đã gặp lại Elwing trên đường đi. Eärendil trở thành người trần đầu tiên đặt chân lên Valinor. Sau đó chàng đến diện kiến các đấng Valar, cầu xin họ giúp đỡ loài Người và Tiên tộc ở Trung địa chống lại Morgoth; và các đấng Valar đã chấp nhận lời thỉnh cầu.

Light of earendil by breathing2004-d7c7td4

Ánh sáng của Eärendil, tranh của breathing2004

Bởi vì lời cầu xin của Eärendil là cho loài Người và Tiên tộc chứ không vì bản thân chàng nên thần Manwë không bắt chàng phải chết. Và bởi vì cả Eärendil và Elwing đều có nguồn gốc từ những cuộc hôn phối của Tiên và Người nên thần Manwe ban cho hai vợ chồng cùng các con quyền được chọn chủng tộc mà họ sẽ thuộc về (món quà này sau đó được truyền cho các con của Elrond Á tiên). Elwing đã chọn trở thành Tiên trong khi Eärendil muốn trở thành con Người; tuy nhiên thuận theo ý muốn của vợ, Eärendil cuối cùng cũng thuộc về Tiên tộc.

Các đấng Valar nghe theo lời thỉnh cầu của Eärendil đã mang một lực lượng hùng hậu đến Trung địa, lật đổ và bắt được Morgoth. Eärendil cũng tham gia trận chiến, chiếc thuyền Vingilótë của chàng được ban phước bởi các đấng Valar, bao bọc trong một ánh lửa trắng chói lòa và bay lên trời. Chàng cưỡi chiếc thuyền bên cạnh Chúa tể Thorondor cùng bầy đại bàng khổng lồ. Hợp sức với Thorondor, Earendil Thủy thủ đã hạ gục con rồng Ancalagon và khi thi thể của nó rơi xuống Thangorodrim, cộng với sức tàn phá khủng khiếp của Cuộc chiến Thịnh nộ đã hủy diệt Beleriand.   

800px-Per Sjögren - War of Wrath II

Eärendil sau đó sống tại Valinor và ánh sáng từ viên Silmaril trên vầng trán của chàng có thể được nhìn thấy như Ngôi sao đêm sáng nhất trời Tây xa xôi. Những người ở lại Trung địa đã gọi nó là Gil-Estel (Ngôi sao Hy vọng).   

Bài ca về Eärendil, được viết bởi Bilbo Baggins, thường được cất lên tại những sảnh đường của Rivendell - ngôi nhà của của con trai Eärendil là Elrond.

Dịch tên[]

Cái tên Eärendil trong tiếng Quenya có nghĩa là “Người yêu biển”, xuất phát từ (biển) và hậu tố -ndil (bạn, người yêu). Tên-dòng-mẹ của chàng là Ardamírë (trang sức của Arda), xuất phát từ chữ mírë (trang sức) trong tiếng Quenya.

Tên Eärendil dịch theo ngôn ngữ Adûnaic là Azrubêl.

Biệt hiệu[]

Eärendil được gọi bằng nhiều biệt hiệu như: Eärendil Á tiên, Eärendil Thủy thủ, Eärendil Người được ban phước và Eärendil Rực rỡ.

Về nhân vật[]

Eärendil được miêu tả như sau:

“Đứa bé mang một vẻ đẹp tuyệt vời; da cậu trắng tựa ánh sáng còn đôi mắt xanh  vượt cả bầu trời phương Nam, xanh hơn cả những viên ngọc bích đính trên y phục của thần Manwe. Trong khi Maeglin rất căm ghét sự ra đời của cậu thì Turgon và tất thảy mọi người đều lấy đó làm điều đáng mừng.”

The History of Middle-earth, The Fall of Gondolin

Ý tưởng và sáng tạo[]

Năm 1914, tác giả Tolkien đã viết bài thơ Chuyến hải hành của Eärendil Sao đêm lấy cảm hứng từ bài thơ “Crist” của Cynewulf. Khi còn đang học tại Oxford, cụ đã phát triển một thứ ngôn ngữ mà sau này được biết đến là tiếng Quenya. Khoảng năm 1915 cụ muốn rằng thứ ngôn ngữ này phải có một lịch sử của riêng nó và cụ đã cho những Tiên mà Eärendil  gặp trong chuyến hành trình sử dụng nó. Tác phẩm tiếp theo nói về huyền thoại này là Bài ca về Eärendil, bao gồm nhiều vầng thơ miêu tả Eärendil cùng chuyến hải trình và cách con tàu của chàng đã biến thành một ngôi sao. Cũng trong tác phẩm này, lần đầu tiên vùng đất Valinor và Cây vàng, Cây bạc được miêu tả.  

Truyền thuyết về Eärendil của tác giả Tolkien có những yếu tố giống với huyền thoại Immram của người Celtic hoặc câu chuyện về Thánh Brendan trong đạo Thiên Chúa.

Humphrey Carpenter trong cuốn tiểu sử về tác giả Tolkien đã nói rằng câu chuyện về Eärendil  đã bắt đầu huyền thoại của riêng Tolkien.

Thông tin bài viết[]

Lược dịch từ The Lord of the Rings wikia và Tolkien Gateway

Advertisement